Tàu tuần dương bọc thépPrinz Heinrich | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | Prinz Heinrich |
| Đặt tên theo | Hoàng tử Heinrich của Phổ |
| Xưởng đóng tàu | Xưởng tàu Đế chế,Kiel |
| Đặt lườn | tháng 12 năm1898 |
| Hạ thủy | 22 tháng 3 năm1900 |
| Nhập biên chế | tháng 3 năm1902 |
| Số phận | Bị tháo dỡ1920 |
| Đặc điểm khái quát | |
| Kiểu tàu | Tàu tuần dương bọc thép |
| Trọng tải choán nước |
|
| Chiều dài |
|
| Sườn ngang | 19,6 m (64 ft) |
| Mớn nước |
|
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ | 20hải lý trên giờ (37 km/h) |
| Tầm xa | 4.580 nmi (8.480 km) ở tốc độ 10 kn (19 km/h) |
| Tầm hoạt động | 1.590 t (1.560 tấn Anh; 1.750 tấn Mỹ)than |
| Thủy thủ đoàn tối đa | 567 |
| Vũ khí |
|
| Bọc giáp |
|
SMSPrinz Heinrich là mộttàu tuần dương bọc thép đượcHải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn chuyển sangThế kỷ 20, là chiếc duy nhất trong lớp của nó, được đặt tên theoHoàng tử Henry, em trai củaKaiser Wilhelm II.Prinz Heinrich được chế tạo tạiXưởng tàu Đế chế ởKiel, được đặt lườn vào năm1898 và hoàn tất vàotháng 3 năm1902 với chi phí 16.588.000Mác. Thiết kế củaPrinz Heinrich là một phiên bản được cải tiến từ chiếc tàu tuần dương bọc thép dẫn trướcFürst Bismarck, đánh đổi một dàn pháo chính nhỏ hơn để có tốc độ nhanh hơn và vỏ giáp bảo vệ toàn diện hơn. Con tàu mở đầu cho một xu hướng mới cho các tàu tuần dương bọc thép tiếp theo, khi tập trung dàn hỏa lực hạng hai phía giữa tàu thay vì phân bố suốtchiều dài con tàu như trên chiếcFürst Bismarck.
Prinz Heinrich đã phục vụ cùng hạm đội Đức trong hầu hết quãng đời hoạt động của nó. Sau khiChiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra vàotháng 8 năm1914, con tàu đã tham gia chiến dịch tại vùng bờ biển nướcAnh vàotháng 12 năm1914 trước khi được chuyển sang khu vựcbiển Baltic. Tại đây nó chiến đấu chống lại Hải quânNga và đã tham dựTrận chiến vịnh Riga vàotháng 8 năm1915, nơi nó gây hư hại mộttàu khu trục Nga. Đến năm1916, con tàu được rút khỏi hoạt động thường trực nơi tuyến đầu để sử dụng trong nhiều vai trò khác nhau tại Kiel, kể cả như một sở chỉ huy nổi cho ban tham mưu hải quân.Prinz Heinrich cuối cùng bị bán vào năm1920 để tháo dỡ.
Đạo luật Hải quân thứ hai của Đức thông qua vào năm1900 cho phép sở hữu một lực lượng mười bốntàu tuần dương bọc thép nhằm hoạt động tại các thuộc địa của Đức ở nước ngoài. Tuy nhiên,Hải quân Đức cũng đòi hỏi nhữngtàu tuần dương để hoạt động cùng hạm đội, nên dự định thiết kế những con tàu đáp ứng được cả hai vai trò,[1] chủ yếu là do kinh phí bị giới hạn.[2] Chiếc đầu tiên ra đời theo Luật Hải quân 1900,Prinz Heinrich, là một phiên bản cải tiến của chiếc tàu tuần dương bọc thép dẫn trướcFürst Bismarck, trang bị ít pháo hơn và vỏ giáp mỏng hơn để đổi lấy tốc độ cao và giảm chi phí.[3] Thiết kế cũng mở đầu cho một xu hướng mới tập trung dàn hỏa lực hạng hai phía giữa tàu; trên chiếcFürst Bismarck dàn pháo hạng hai được phân bố suốtchiều dài con tàu.[4] Mọi tàu tuần dương bọc thép tiếp theo đều là sự phát triển dựa trênPrinz Heinrich.[3]Prinz Heinrich được đặt lườn vào năm1898 tạiXưởng tàu Đế chế ởKiel. Nó được hạ thủy vào ngày22 tháng 3 năm1900 và hoàn tất không đầy hai năm sau đó, vào ngày11 tháng 3 năm1902.[4] Chiếc tàu tuần dương mới đã làm tiêu tốn của Chính phủĐế quốc Đức 16.588.000Mác.[5]
Prinz Heinrich cóchiều dài ở mực nước 124,9 mét (410 ft) vàchiều dài chung là 126,5 m (415 ft);mạn thuyền rộng 19,6 m (64 ft) vàmớn nước sâu 7,65 m (25,1 ft) phía trước và 8,07 m (26,5 ft) phía sau. Con tàu cótrọng lượng choán nước 8.887 tấn (8.747 tấn Anh; 9.796 tấn Mỹ) khi chế tạo, và lên đến 9.806 t (9.651 tấn Anh; 10.809 tấn Mỹ) khi đầy tải chiến đấu.Lườn tàu được cấu trúc từ những khung thép ngang và dọc, bao gồm mười bangăn kín nước và mộtđáy kép chiếm 57%chiều dài con tàu. Hải quân Đức đánh giá nó như một tàu đi biển tốt, chuyển động nhẹ nhàng, nhưng có xu hướng lật nghiêng nặng khi bẻ lái. Nó cóchiều cao khuynh tâm 0,73 m (2 ft 5 in).[5]Prinz Heinrich được vận hành bởi một thủy thủ đoàn bao gồm 35 sĩ quan và 532 thủy thủ, và trong giai đoạn nó đảm trách vai trò tàu chỉ huy thứ hai của Hải đội Tuần dương, thủy thủ đoàn tiêu chuẩn được bổ sung thêm chín sĩ quan và 44 thủy thủ. Nó mang theo một số xuồng nhỏ, bao gồm hai xuồng gác, mộtxuồng đổ bộ, một xuồng chèo, hai ca-nô, haixuồng yawl và hai xuồng nhỏ.[6]
Hệ thống động lực củaPrinz Heinrich bao gồm bađộng cơ hơi nướcbành trướng 4 xy-lanh. Trục động cơ giữa được nối vớichân vị bốn cánh đường kính 4,28 m (14,0 ft), trong khi hai trục bên nối với chân vịt bốn cánh đường kính 4,65 mét (15,3 ft). Hơi nước đến các động cơ được cung cấp từ mười bốn nồi hơi Dürr do hãngDüsseldorf-Ratinger Röhrenkesselfabrik sản xuất, tạo ra áp lực cho đến 15atmôtphe chuẩn (1.500 kPa). Hệ thống động lực này tạo ra công suất tối đa 15.000mã lực chỉ (11.000 kW) và cho phép con tàu đạt được tốc độ tối đa 20hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph); cho dù khi chạy thử máy nó đạt đến công suất 15.694 ihp (11.703 kW) nhưng tốc độ tối đa chỉ đạt 19,9 kn (36,9 km/h; 22,9 mph). Nó được thiết kế để mang theo 900 t (890 tấn Anh; 990 tấn Mỹ)than, mặc dù các chỗ trống bổ sung trên tàu cho phép mang tối đa 1.590 t (1.560 tấn Anh; 1.750 tấn Mỹ). Điều này cho phép nó có tầm hoạt động tối đa 2.290hải lý (4.240 km; 2.640 mi) ở tốc độ 18 kn (33 km/h; 21 mph), và lên đến 4.580 nmi (8.480 km; 5.270 mi) nếu đi ở tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h; 12 mph).[5]
Prinz Heinrich được trang bị nhiều kiểu vũ khí khác nhau. Dàn pháo chính của nó bao gồm hai khẩu 24 cm (9,4 in) SK L/40 bắn nhanh đặt trêntháp pháo nòng đơn bố trí ở hai đầu củacấu trúc thượng tầng. Chúng được cung cấp 75 quả đạn pháo cho mỗi khẩu pháo, có thể hạ cho đến góc −4° và nâng tối đa cho đến góc 30°, cho phép có được tầm bắn tối đa 16.900 m (18.500 yd).[5] Các khẩu pháo bắn ra đạn pháo nặng 140 kg (310 lb) vớilưu tốc đầu đạn 835 m/s (2.740 ft/s).[7] Một dàn pháo hạng hai gồm mười khẩu 15 cm (5,9 in) SK L/40 bắn nhanh bổ sung thêm cho dàn pháo chính. Sáu trong số chúng được đặt trong cáctháp pháo ụ hai bên mạn phía giữa tàu, trong khi số còn lại đặt trong các tháp pháo trên lườn tàu cao hơn các tháp pháo ụ. Kiểu vũ khí này được cung cấp 120 quả đạn pháo cho mỗi khẩu;[8] đạn pháo nặng 40 kg (88 lb) và được bắn ra với lưu tốc đầu đạn 800 m/s (2.600 ft/s). Chúng có thể nâng tối đa cho đến góc 25°, cho phép đạt được tầm bắn tối đa 13.700 m (15.000 yd).[7]
Chiếc tàu tuần dương mang theo mười khẩu pháo 8,8 cm (3,5 in) SK L/30 bắn nhanh để phòng thủ chống lạitàu phóng lôi; mỗi khẩu được cung cấp 250 quả đạn pháo[5] nặng 7 kg (15 lb) và được bắn ra với lưu tốc đầu đạn 670 m/s (2.200 ft/s), cho phép bắn xa đến 7.300 m (8.000 yd) ở góc nâng tối đa 20°.[7]Prinz Heinrich ban đầu còn có bốn khẩupháo tự động nhưng sau đó bị tháo dỡ. Con tàu còn được trang bị bốn ống phóngngư lôi 45 cm (18 in),[5] được phân bố gồm một đặt trên bệ xoay phía đuôi tàu, một ống phóng ngầm dưới mực nước phía trước mũi và một ống phóng ngầm mỗi bên mạn tàu ngang với tháp pháo phía trước.[8]
Prinz Heinrich được bảo vệ bởivỏ giáp Krupp.Đai giáp của nó dày 100 milimét (3,9 in) ở phần giữa con tàu để bảo vệhầm đạn, động cơ và các phần thiết yếu của con tàu. Độ dày của đai giáp giảm còn 80 mm (3,1 in) ra hai đầu, trong khi mũi và đuôi tàu hoàn toàn không có đai giáp. Toàn bộchiều dài của đai giáp được lót thêm bên trong những tấm gỗtếch với độ dày tương đương. Sàn tàu bọc thép dày 35–40 mm (1,4–1,6 in) và được nối với đai giáp bởi lớp giáp nghiêng dày 50 mm (2,0 in) phía mạn tàu.[5]
Tháp chỉ huy phía trước có các lớp giáp mặt hông dày 150 mm (5,9 in) và lớp vỏ giáp trên nóc dày 30 mm (1,2 in); tháp chỉ huy phía sau được bảo vệ kém hơn khi chỉ được che phủ các tấm thép dày 12 mm (0,47 in). Tháp pháo chính các các mặt hông dày 150 mm (5,9 in) và nóc dày30 mm (1,2 in); tháp pháo 15 cm có vỏ giáp dày 100 mm (3,9 in), trong khi các tháp pháo ụ được bảo vệ bởi các tấm chắn thép dày 70 mm (2,8 in). Bản thân ụ tháp pháo được bọc thép dày 100 mm (3,9 in).[5]

Sau khi được đưa vào hoạt động năm1902,Prinz Heinrich đã phục vụ cùng Hạm đội Đức; nó làsoái hạm của Hải đội Tuần dương cùng vớitàu tuần dương bảo vệVictoria Louise và támtàu tuần dương hạng nhẹ.[9] Vàotháng 1 năm1904, chiếc tàu tuần dương đã cùng với hai tàu chở hành khách đi đến thị trấnÅlesund củaNa Uy sau một vụ hỏa hoạn đã phá hủy thị trấn này; các con tàu mang theo hàng tiếp tế và thuốc men đến cảng và trợ giúp vào việc cứu nạn.[10] Nó được điều sang Phân đội 2 của Hải đội Tuần dương thuộc hạm đội thường trực vào năm1905 sau khi chiếc tàu tuần dương bọc thép mớiFriedrich Carl được đưa vào hoạt động. Phân đội 2 còn bao gồm các tàu tuần dương hạng nhẹArcona,Hamburg vàAmazone, vốn được cho phối thuộc cùng Hải đội 2 của hạm đội thường trực. Một phân đội khác, bao gồm một tàu tuần dương bọc thép và ba tàu tuần dương hạng nhẹ, cũng được phối thuộc cho Hải đội 1.[11]
Vàotháng 2 năm1907,Prinz Heinrich đã tiến hành một loạt các thử nghiệm với thiết bị Miller, đượcHải quân Hoa Kỳ sử dụng để tiếp tế nhiên liệu ngoài biển. Thử nghiệm thứ nhất được tiến hành vào ngày17 tháng 2 cùng với chiếctàu tiếp thanHermann Sauber; thủy thủ đoàn đã có khả năng chuyển 56 tấn Mỹ (51 t) than trong vòng một giờ. Sang ngày22 tháng 12, một thử nghiệm khác được tiến hành trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhưng cũng cho kết quả tương tự.[12] Vào năm1914,Prinz Heinrich đi vào ụ tàu của Xưởng tàu Đế chế tại Kiel để hiện đại hóa. Sự sắp xếp các đèn pha tìm kiếm được cải tiến, thành tàu chung quanh cấu trúc thượng tầng được tháo dỡ, các cột ăn-ten được hiện đại hóa. Sau các cải tiến này, nó gia nhập trở lại hạm đội.[8]
Tiếp theo sau làn sóng tuyên chiến nhau giữa các cường quốcChâu Âu vào cuốitháng 7 năm1914,Đế quốc Anh đã tuyên chiến vớiĐế quốc Đức vào ngày5 tháng 8.[13]Prinz Heinrich đã tham gia đợt tấn công lớn thứ hai của Hải quân Đức tạiBắc Hải, cuộcbắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby vào ngày15-16 tháng 12 năm1914. Cùng với tàu tuần dương bọc thépRoon và một chi hạm độitàu phóng lôi,Prinz Heinrich được giao nhiệm vụ trinh sát cho lực lượng chính củaHạm đội Biển khơi Đức, đặt dưới quyền chỉ huy củaĐô đốcFriedrich von Ingenohl. Thành phần hạm đội chủ lực này sẽ hỗ trợ từ xa cho cáctàu chiến-tuần dương dưới quyền chỉ huy củaChuẩn đô đốcFranz von Hipper vốn là lực lượng tiến hành cuộc bắn phá.[14] Trong đêm15 tháng 12, hạm đội chiến trận Đức với khoảng 12thiết giáp hạmdreadnought và támthiết giáp hạm tiền-dreadnought đã chỉ ở cách 10 nmi (19 km; 12 mi) một hải đội biệt lập bao gồm sáu thiết giáp hạm Anh. Tuy nhiên, ca8c cuộc đụng độ lẻ tẻ giữa cáctàu khu trục hộ tống của hai phía đã khiến đô đốc von Ingenohl tin rằng ông đang phải đối đầu với toàn bộHạm đội Grand Anh Quốc. Tuân theo chỉ thị củaKaiser Wilhelm II tránh mạo hiểm hạm đội một cách không cần thiết, von Ingenohl đã tách khỏi trận chiến và quay mũi hạm đội quay trở về vùng biển Đức.[15] Sau chiến dịch này, người ta xác định chiếc tàu tuần dương mười hai tuổiPrinz Heinrich không có chỗ trong hàng ngũ chống lại hạm đội Anh hùng mạnh, nên nó được điều sangbiển Baltic để hoạt động chống lại Hạm đội Nga.[4]

Chuẩn đô đốc Hopman, Tư lệnh lực lượng tuần tiễu tại biển Baltic, tiến hành một chiến dịch tấn công lớn nhắm vàoLibau, phối hợp với một nỗ lực củaLục quân Đức để chiếm thành phố.[16] Cuộc tấn công diễn ra vào ngày7 tháng 5 với lực lượng bao gồm các tàu tuần dương bọc thépPrinz Heinrich,Roon vàPrinz Adalbert, chiếchải phòng hạm cũBeowulf cùng các tàu tuần dương hạng nhẹAugsburg,Thetis vàLübeck, được hộ tống bởi một sốtàu khu trục,tàu phóng lôi vàtàu quét mìn. Đội tuần tiễu 4 thuộc Hạm đội Biển khơi Đức cũng được điều động từBắc Hải đến để hỗ trợ cho chiến dịch.[17] Cuộc bắn phá tiến hành như kế hoạch, cho dù tàu khu trụcV107 trúng phải một quảthủy lôi trong cảng Libau, làm vỡ tung mũi và phá hủy con tàu. Dù sao cuộc tấn công của Lục quân cũng diễn ra thành công, và họ chiếm đóng được thành phố.[18]
Vào ngày1 tháng 7, được hộ tống bởi các tàu tuần dươngRoon,Augsburg vàLübeck cùng bảy tàu khu trục,tàu rải mìnAlbatross đã rải một bãi thủy lôi ở phía BắcBogskär. Trên đường quay trở về, hải đội được cho tách làm đôi:Augsburg,Albatross cùng ba tàu khu trục hướng đếnRixhöft trong khi số còn lại đi đến Libau.Augsburg vàAlbatross bị một lực lượnghải quân Nga hùng hậu dưới quyền Chuẩn đô đốcMikhail Bakhirev đánh chặn, bao gồm ba tàu tuần dương bọc thép và hai tàu tuần dương hạng nhẹ.[19]Thiếu tướng Hải quânJohannes von Karpf chỉ huy hải đội đã ra lệnh cho chiếcAlbatross chậm hơn rút lui đến vùng biểnThụy Điển trung lập đồng thời cầu cứuRoon vàLübeck.Albatross bị mắc cạn ngoài khơiGotland vàAugsburg chạy thoát; hải đội Nga giao chiến trong một lúc ngắn vớiRoon trước khi hai phía tách ra. Được báo cáo tình hình, Hopman khởi hành cùng vớiPrinz Heinrich vàPrinz Adalbert để trợ giúp von Karpf. Trên đường đi, các tàu tuần dương bọc thép đã đụng độ vớitàu ngầmAnhE9, vốn đã bắn trúng một quảngư lôi vàoPrinz Adalbert. Hopman hủy bỏ chiến dịch và quay trở lại cảng cùng với chiếc tàu tuần dương bọc thép bị hư hại.[20]
Lực lượng hải quân Đức tại Baltic được tăng cường thêm những đơn vị thuộc Hạm đội Biển khơi trong quá trình diễn raTrận chiến vịnh Riga vàotháng 8 năm1915, một kế hoạch của Đức nhằm đẩy lực lượng Nga ra khỏivịnh Riga đồng thời rải mìn ngăn chặn ý định phản công của đối phương. Cácthiết giáp hạm thuộc Hải đội Chiến trận 1 là lực lượng tấn công chủ lực, cho dùPrinz Heinrich cùng các con tàu cũ hơn phối thuộc chohạm đội Baltic cũng tham gia.[21] Vào ngày10 tháng 8,Prinz Heinrich vàRoon bắn phá các vị trí phòng thủ của Nga tạiZerel, mũi cực Nam củabán đảo Sworbe thuộc đảoÖsel. Nhiều tàu khu trục Nga neo đậu ngoài khơi Zerel đã hoàn toàn bị bất ngờ,Prinz Heinrich vàRoon đã làm hư hại một trong các tàu khu trục đối phương trong cuộc tấn công.[22] Tuy nhiên, sự phòng ngự kiên cường của phía Nga cộng với những báo cáo về hoạt động của tàu ngầm Anh trong khu vực, được chứng tỏ qua việctàu chiến-tuần dươngMoltke trúng ngư lôi vào ngày19 tháng 8, đã buộc phía Đức phải hủy bỏ chiến dịch.[23]
Bắt đầu từ năm1916,Prinz Heinrich được cho rút khỏi các hoạt động nơi tuyến đầu để sử dụng như một sở chỉ huy nổi tạiKiel.[1] Dàn vũ khí của nó được tháo dỡ, rồi sau đó được sử dụng như một tàu kho chứa cũng tại Kiel cho đến hết quãng đời phục vụ.Prinz Heinrich được rút khỏi danh sách đăng bạ hải quân vào ngày25 tháng 1 năm1920 rồi bị bán để tháo dỡ cuối năm đó. Con tàu bị tháo dỡ tại Audorf-Rendsburg.[6]