Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Sở (nước)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xemSở.
Sở
Tên bản ngữ
  • 楚國
1030 TCN–223 TCN
Giản đồ các nước cuối thời Xuân Thu
Giản đồ các nước cuối thời Xuân Thu
Vị thếVương quốc
Thủ đôĐan Dương[1] (丹陽) từ ~1030-~863 TCN
Cương Dĩnh[2](疆郢) từ ~863-278 TCN
Kỷ Dĩnh[3] (纪郢)
Trần Dĩnh[4] (陈郢) từ 278-241 TCN
Thọ Xuân[5] (寿春) từ 241-224 TCN
Bành Thành[6] (彭城)
Ngôn ngữ thông dụngTiếng Sở, tiếng Miêu
Tôn giáo
Bách gia chư tử
Chính trị
Chính phủPhong kiến
Quốc vương 
• -
Sở Dục Hùng
Sở Bá vương
Lệnh doãn 
• –
Các tướng quốc khác nhau
Lịch sử 
• Sở Hùng Dịch thành lập trong thời kỳ trị vì củaChu Thành Vương
1030 TCN
• Bị Tần diệt trong thời củaThủy Hoàng Đế, sau bịHán Cao Tổ diệt
223 TCN
Kinh tế
Đơn vị tiền tệThẻ tre,tiền xu
Tiền thân
Kế tục
Nhà Chu
Chiến Quốc
Tần quốc
Nhà Tần

Sở (chữ Hán: 楚國), (chữ Phạn: श्रीक्रुंग /Srikrung) đôi khi được gọiKinh Sở (chữ Hán: 荆楚), là mộtchư hầu củanhà Chu tồn tại thờiXuân ThuChiến Quốc kéo đến thờiHán-Sở. Cương vực củaquốc gia này rất rộng bao gồm vùng đất nam và bắc sôngHoài HàDương Tử.

Suốt dọclịch sử, Sở tận dụng được địa thế núi non hiểm trở cận Tây để thôn tính dần 45 phiên khác ở bình nguyênHoa Trung, có lúc lấn át cảthiên tử, dẫu vậy vẫn duy trì hình tháiphong kiến chứ không chuyển hóa sangtập quyền. Quốc tính của Sở là họMị.

Trong thời kỳ hưng thịnh nhất của mình, Sở có lúc lấn át cảthiên tử nhà Chu và các chư hầuXuân Thu-Chiến Quốc hùng mạnh còn lại. Những thần dân cũ của nước Sở trước khi bịnước Tần (thờiTần Thủy Hoàng) thôn tính như làHạng Vũ,Lưu BangHàn Tín đều đóng một vai trò rất quan trọng tronglịch sử Trung Quốc cổ đại bởi họ có ảnh hưởng quyết định trong những sự kiện mang tính bước ngoặt: sự sụp đổ sớm củanhà Tần (hay đế quốc Tần),chiến tranh Hán-Sở và sự ra đời củanhà Hán (hayđế quốc Hán). Vậy là triều Hán (mà từ đó ra đời các tên gọi phổ biến theo sau nhưHán tộc "Hànzú",Hán nhân "Hànrén",Hán tự "Hànzì",Hán ngữ "Hànyǔ") đã được khai sinh bởi những người Sở cũ là Lưu Bang và Hàn Tín.

Lịch sử

[sửa |sửa mã nguồn]

Thủy tổ

[sửa |sửa mã nguồn]

TheoSử Ký, mục Sở thế gia thì tổ tiên củaquốc vương Sở làXứng con traiChuyên Húc, một trongNgũ Đế trong huyền sử Trung Quốc. Xứng sinhQuyển Chương, Quyển Chương sinhTrọng LêNgô Hồi, 2 anh em có công dẹp loạnCộng Công nên thay nhau giữ chức hỏa chính thờiĐế Cốc Cao Tân thị với danh hiệuChúc Dung. Ngô Hồi sinhLục Chung, Lục Chung sinh 6 trai:Côn Ngô,Tham Hồ,Bành Tổ,Hội Nhân,Tào AnQuý Liên. Côn Ngô đượcnhà Hạ phong hầu nhưng đời sau bị vuaThành Thangnhà Thương diệt,Bành Tổ cũng đượcĐại Bành thị quốc nhưng đời sau bịvương hậuPhụ Hảo của vuaVũ Đinh nhà Thương đánh bại. Quý Liên lấyhọ Mị được xem làthủy tổ của các vua Sở sau này.

Triều đại

[sửa |sửa mã nguồn]
Sở quốc -triện văn,220 TCN
Giản đồ các nước thời Chiến Quốc[7]

Thụ phong ở đất Kinh

[sửa |sửa mã nguồn]

Tổ tiên của Sở làDục Hùng, được cử đi cai quản khu vực ở phía Nam Triều Ca,[8] giữ chức quan trongtriều Thương.Dục Hùng đổi thành họ Hùng.[9] Dục Hùng từng là thầy dạy học củaChu Văn Vương, có công trong việc tiêu diệtnhà Thương, nên con ông làHùng Lệ và cháu ông làHùng Cuồng đều được phong quan trongtriều Chu. Đến đờiHùng Dịch thì đượcChu Thành Vương phong cho đất Kinh, làm chư hầu kiến quốc, tước hiệu là Sở tử.[10] Từ thời điểm đó, Sở chính thức trở thành nước chư hầu củanhà Chu. Đất Kinh còn gọi là Kinh Sở, hay Sở quốc. Kinh đô nước Sở ban đầu đặt tạiĐan Dương.[11]

Xưng vương lần thứ nhất

[sửa |sửa mã nguồn]

Đất tổ ở namTrường Giang (thuộc phía đông nam tỉnh Hồ Bắc ngày nay), nước Sở nằm ngoài các cuộc tranh chấp tạiTrung nguyên, tự do phát triển thế lực ở phương Nam bằng các thành công trong những chiến dịch quân sự mở rộng lãnh thổ. Sở nổi tiếng vì khả năng ép buộc và thu hút các nước khác gia nhập liên minh với họ. Từ một nước độc lập nhỏ ban đầu, Sở phát triển trở thành một đế chế rộng lớn và giàu mạnh so vớichư hầu. Đầu tiên, Sở củng cố quyền lực bằng cách thu hút các nước chư hầu nhỏ hơn thành các nước phụ dung của họ ở vùngHồ Bắc; sau đó họ mở rộng ra phía bắc về phíaĐồng bằng Hoa Bắc.

Đến thờiSở Hùng Cừ (khoảng năm 877 TCN),nhà Chu cũng bước vào giai đoạn suy yếu, mà nước Sở tiếp tục lớn mạnh. Để chứng tỏ uy thế, Hùng Cừ phong cho người con trưởng làHùng Vô Khang làm Câu Nghi Vương, người con thứ làHùng Chí Hồng làm Ngạc Vương và người con út làHùng Chấp Tỳ là Việt Chương Vương.[10] Bấy giờ ông Chu Công có câu nói:" Nhung Địch thị ưng, Kinh Thư thị trừng " tức quân Nhung Địch phải dẹp yên, quân Kinh Thư - tức quân nước Sở - phải trừng phạt " là ý muốn dẹp nước Sở trong giai đoạn này vậy. Như vậy, Sở là nước chư hầu nhà Chu đầu tiên ở Trung Nguyên tự xưng tước vương.

Sang đến thời Việt Chương vương Chấp Tì lên ngôi (sau đổi tên là Hùng Duyên),nhà Chu chuẩn bị đem quân trừng phạt nước Sở dám tự ý xưngvương. Hùng Duyên sợnhà Chu còn mạnh, đành thôi không xưng vương nữa, sai sứ sangnhà Chu nộp cống cỏ mao như cũ, bỏ vương hiệu, tự xưng là tử như cũ nênnhà Chu không đưa quân chinh phạt Sở nữa. Lần xưng vương thứ nhất cũng đánh dấu sự hùng mạnh nhanh chóng của Sở trong thờiTây Chu.

Từ đờiSở Hùng Duyên, niên đại của các quân chủ nước Sở mới được ghi chép rõ rằng trong sử sách.

Nội loạn trong dòng tộc

[sửa |sửa mã nguồn]

Từ đời Chấp Tì truyền thêm ba đời nữa thì tớiSở Hùng Nghiêm. Hùng Nghiêm có bốn người con trai làHùng Sương (熊霜) hayBá Sương (伯霜), Hùng Tuyết (熊雪) hay Trọng Tuyết (仲雪), Hùng Kham (熊堪) hay Thúc Kham (叔堪), vàHùng Tuấn (熊徇) hay Quý Tuấn (季徇). Sau này, Hùng Nghiêm truyền ngôi cho con trưởng Hùng Sương nhưng ông này chỉ làm vua 6 năm thì mất. Nội bộ nước Sở lại phát sinh tranh chấp quyền lực. Cuối cùng, Hùng Tuấn đánh bại được hai anh, tự lập làm vua, còn Hùng Tuyết tự sát, Hùng Kham bỏ trốn. Ngôi vua của nước Sở được chuyển qua ngành thứ củaHùng Tuấn.[10]

Tranh bá Trung Nguyên

[sửa |sửa mã nguồn]

Xưng vương lần thứ hai

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Sở Vũ vương

Sang thờiĐông Chu thế lựcnhà Chu ngày càng suy do sự xâm lấn của Nhung Địch, buộc phải thiên về Lạc Ấp.[12] Nước Sở ở xaTrung Nguyên nên sự ràng buộc vớinhà Chu cũng lỏng lẻo. Đến năm706 TCN, vua Sở là Hùng Thông (741 TCN-690 TCN) nhận thấy tổ tiên mình là thầy củaChu Văn vương, mà thế lực của mình hơn hẳn các nướcTrung Nguyên nên không hài lòng với tược vị tử nữa. Hùng Thông dùng chính sách chinh phạt cácchư hầu khác để tạo uy thế épnhà Chu nâng tước phong cho mình. Năm704 TCN, Hùng Thông mời các chư hầu làBa, Dung, Bộc,Đặng, Giảo, La, Chẩn,Thân,Giang... đến dự hội chư hầu ở đất Lộc thuộc lãnh thổ của Sở.[13] Thấynước Tùy[14]nước Hoàng không đến dự, Hùng Thông bèn sai sứ đến trách cứnước Hoàng và tấn côngnước Tùy, buộc vua Tùy giảng hòa và quy phục.[15]

Năm704 TCN, Hùng Thông tự làm lễ xưng vương hiệu, tứcSở Vũ vương bất chấp sự phản đối của vuanhà Chu.[10] Từ đấy, nước Sở duy trì tước vương đến tận lúc diệt vong.

Sau khi xưng vương, Hùng Thông ra sức khuếch trương thế lực, lần lượt tiêu diệt các chư hầu làMi,[16],La,[17] trở thành bá chủ cả một miền Hoa Nam.

Dời đô đến đất Dĩnh

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau khi Hùng Thông qua đời, con là Hùng Xi lên nối ngôi (Sở Văn vương), thế lực của Sở vẫn cường thịnh. Hùng Xi dời đô sang đất Dĩnh[10][18] và mở rộng thế lực lên vùng Trung Nguyên, diệt các nướcTức,Thân, Đặng và đánhnước Sái, bắt được vua của Sái.[19]

Bước sang thờiSở Thành vương (672 TCN-626 TCN), dưới sự lãnh đạo cải cách của lệnh doãn (tướng quốc)Tử Văn, Sở bước sang một giai đoạn mới: tiến lên tranh bá với các nước ở Trung Nguyên. Sau những thất bại ban đầu trước nước bá chủ vào thời điểm đó làTề, cuối cùng, năm637 TCN, khiTề đã suy yếu, Sở đã đạt được mục đích của mình khi đánh bại đối thủ tranh bá làTống trongtrận Hoằng Thủy.[20][21] Thắng lợi này là một bước quan trọng trên con đường xưng bá của Sở.

Tuy nhiên sau đó,nước Tấn ở miền Tây Bắc cũng đang trên đà lớn mạnh và cũng có tham vọng tranh bá. Cuối cùng, quân đội hai nước cũng đã bước vào trận chiến tranh giành ngôi bá với nhau vàTấn đã chiến thắng khi vượt qua Sở ởtrận Thành Bộc, qua đó chính thức bước lên ngôi bá chủ.[22][23] Trận đánh này cũng đã mở đầu cho 100 năm tranh hùng giữa hai nướcTấn và Sở.

Sở Trang vương xưng bá

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Sở Trang vương
Giản đồ các nước lớn thời Xuân Thu
  Sở (楚)
  Đất do thiên tửnhà Chu cai quản

Sau nhiều lần giao tranh vớiTấn, Sở cũng đã bước lên được ngôi bá chủ ở Trung Nguyên dưới thờiSở Trang vương (614 TCN-591 TCN). Ở giai đoạn này,Sở Trang vương thi hành chính sách của Tôn Thúc Ngao, phát triển cả về văn hóa lẫn quân đội.Sử ký có ghi lại sự kiện vào năm606 TCN,Sở Trang Vương mang quân đánh ngoại tộc Nhung, đóng quân khắp một dải Lạc Thủy.[24] Thế lực hùng mạnh, vua Sở sai người hỏi lấy chín đỉnh - vốn là vật linh thiêng trong tông miếu củanhà Chu, tượng trưng cho quyền lực của thiên tử.Chu Định vương phải saiVương Tôn Mãn đi lựa lời từ chối, quân Sở mới rút đi.[10][12]

Năm597 TCN, thời cơ của Sở đã đến.Sở Trang vương đem quân đánhnước Trịnh là thuộc quốc của Tấn,[10][25] buộcTrịnh phải quy phục. Sau đó, quânTấn mới đến cứu Trịnh và giao chiến với quân Sở ởtrận Bật. Cuối cùng, quân Sở đánh tan được quânTấn,[22] giành được quyền bá chủ. Các nướcchư hầu lớn nhưTrần,Sái,Hứa,Trịnh đều quy phục, tônSở Trang vương làm minh chủ.

Năm595 TCN. Sở lại đem binh đánhnước Tống. QuânTấn không đủ sức đến cứu, khiếnTống đành phải giảng hòa với Sở và cùng hội thề.[10][20][26] Từ chiến thắng này, phần lớn các chư hầu Trung Nguyên (trừ một số nước lớn hay ở xa nhưTấn,Tề,Lỗ) đều phải thần phục Sở.Sở Trang vương trở thành một trong Ngũ bá của thờiXuân Thu.

Cùng xưng bá với Tấn

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau khiSở Trang vương qua đời, thế lực củanước Tấn cũng phục hồi và lại tiếp tục tranh giành ngôi bá chủ với Sở, và Sở đã thất bại trongtrận Yển Lăng năm575 TCN, qua đó mất đi uy thế với cácchư hầu khác ở Trung Nguyên.

Năm546 TCN, do sự sắp đặt của đại thầnnước Tống là Hướng Tuất,Tấn và Sở quyết định giảng hòa với nhau để cùng làm bá chủ. Cùng năm đó, hai vị tướng quốc của Tấn và Sở làTriệu VũKhuất Kiến đã triệu tập 14 nướcchư hầuTấn, Sở,Tề,Tần,Tống,Lỗ,Trịnh,Vệ,Trần,Sái,Tào,Hứa,Chu,Đằng đến hội ở đấtTống cùng lập minh ước. Theo đó, ngoại trừTề,Tần là hai nước lớn, các nước còn lại chia nhau làm thuộc quốc của Tấn và Sở, ngôi vị bá chủ do hai nướcTấn, Sở thay nhau nắm giữ. Cuộc hội thề này đã chấm dứt thời đại tranh hùng vớiTấn gần 100 năm của Sở.[27]

Thời kì tạm suy yếu

[sửa |sửa mã nguồn]

Tranh chấp nội tộc

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau khi chấm dứt thời kì chiến tranh giành ngôi bá, thì nội loạn lại phát sinh ở Sở, cộng thêmnước Ngô ở phía đông phát triển cường thịnh, làm thế lực của Sở suy yếu hơn trước. Trong 12 năm từ541 TCN đến529 TCN, ngôi quốc vương của Sở đã thay đổi đến 4 lần.Sở Giáp Ngao (conSở Khang vương, trị vì từ544 TCN-542 TCN) vừa lên ngôi được ba năm thì bị chú là công tử Vi đoạt ngôi và giết chết. Công tử Vi tự xưng làSở Linh vương.Sở Linh vương ra sức phô trương thế lực, đánh và diệt hai nướcTrần,Sái, gây chiến vớinước Ngô. Tuy nhiên đến năm529 TCN, khi ông tiến hành chiến tranh vớinước Từ thì ở kinh đô, ba người em là công tử Bỉ, công tử Hắc Quang và công tử Khí Tật nổi dậy.Sở Linh vương cùng đường, phải tự tử.[10][28] Sau đó, công tử Bỉ vừa lên ngôi được 3 tháng cũng bị em là Khí Tật đoạt ngôi, tứcSở Bình vương (529 TCN-516 TCN). Nội loạn nước Sở chấm dứt với việc ngôi vua chuyển về ngành thứ, nhưng kèm theo đó là họa ngoại xâm từ phía đông cũng bắt đầu đe dọa đến Sở.

Chiến tranh với Ngô

[sửa |sửa mã nguồn]
Giản đồ các nước cuối thời Xuân Thu
Bài chi tiết:Sở Bình vương,Nang Ngõa,Sở Chiêu vương, vàNgô Hạp Lư

Từ thờiSở Cung vương (590 TCN-561 TCN, cha Sở Bình vương), thế lựcnước Ngô đã phát triển, vua Ngô làNgô Thọ Mộng tự xưng vương. Kể từ đó, Ngô và Sở lại xảy ra chiến tranh. Chỉ riêng trong thờiSở Bình vương, hai nước đã đánh nhau tới 4 lần. Sang thờiSở Chiêu vương thì con số này là 7.[29] Trong những trận giao tranh đó, quânnước Ngô thường tỏ ra thắng thế, chiếm được đất đai của Sở.

Để phòng tránh sự xâm lấn củaNgô,Sở Bình vương phong choNang Ngõa làm lệnh doãn.Nang Ngõa cho xây thành vững chắc để củng cố phòng thủ.[10] Đến khi Sở Bình vương qua đời, con làSở Chiêu vương (515 TCN-489 TCN lên ngôi khi vừa mới 10 tuổi. Do vua còn nhỏ,Nang Ngõa nắm hết quyền lực điều hành đất nước.

Từ năm515 TCN đến509 TCN,Ngô và Sở giao tranh thêm 5 lần, quân Sở hầu như thất bại cả 5. Đến năm506 TCN, thấy thế lực đã lớn, vuaNgô Hạp Lư thân chinh đánh Sở, tiến vào tậnDĩnh Đô.Sở Chiêu vương phải bôn đào quanước Tùy. Năm505 TCN, do sự cầu xin củaPhần Mạo Bột Tô (có sách chép là Thân Bao Tư),nước Tần mới đồng ý cử binh giúp Sở,nước Sở mới thu hồi lại đượcDĩnh Đô và không bị mất nước.[10][30][31]

Tuy đã khôi phục kinh đô, song sức mạnh của Sở cũng đã suy giảm. Để tránh sự xâm lược của quânNgô, năm504 TCN,Sở Chiêu vương dời đô từ đất Dĩnh sang đất Nhược, đổi tên lại là Dĩnh.[10]

Lại phát triển cường thịnh

[sửa |sửa mã nguồn]

Bắc tiến mở rộng lãnh thổ

[sửa |sửa mã nguồn]

Bước sang thờiSở Huệ vương (489 TCN-432 TCN), nước Sở tiến hành cải cách, ổn định đất nước phát triển trở lại. Sau đó, Sở tiến hành chiến tranh nhằm tiêu diệt các chư hầu ở phía bắc để mở rộng lãnh thổ, lần lượt diệt các nướcTrần (478 TCN),[32]Sái (447 TCN) vàKỉ (445 TCN),[10]Cử (431 TCN thời Sở Giản vương),[10] làm chủ một vùng rộng lớn đến vùng Tứ Thủy, Giang Hoài.

Biến pháp Ngô Khởi

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Ngô Khởi
Ngô Khởi (?-381 TCN).

Bước sang thờiChiến Quốc, nước Sở cùng với một số nước khác thi hành cải cách để phát triển thế lực, dưới sự đề xuất của lệnh doãnNgô Khởi, cũng là một nhà quân sự nổi tiếng thờiChiến Quốc. Ngô Khởi chủ trương tăng cường sức mạnh quân đội, giảm bớt quyền lực của bọn quý tộc, củng cố thế lực ở phía bắc, giảng hòa vớinước Tần ở phía tây, nhờ vậy mà thế lực của Sở nhanh chóng lớn mạnh.[10][33] Năm481 TCN, Sở đánh bại quân củanước Ngụy (vốn là một khanh tộc của nước Tấn) là nước chư hầu hùng mạnh nhất vào thời điểm đó. Mặc dù không lâu sau đó,Ngô Khởi bị sát hại, nhưng cuộc cải cách của ông vẫn có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao thực lực của Sở, đưa Sở trở thành một trong bảy nước chư hầu hùng mạnh nhất thời đó (Thất hùng).

Quốc lực cường đại

[sửa |sửa mã nguồn]

Thời đại hùng mạnh nhất của Sở là khoảng thời gian trị vì củaSở Uy vương. Dưới thời đại của mình, Sở Uy vương mở rộng thế lực đến tậnnước Ba, thôn tínhnước Việt ở phía đông, đại thắng quânTề ở Từ Châu.[34] Sử ký có ghi vài dòng về nước Sở thời này như sau:

"Sở là nước mạnh trong thiên hạ, ở phía tây có quận Kiềm Trung, quận Vu; phía đông có đất Hạ Châu, Hải Dương; phía nam có hồ Động Đình, quận Thương Ngô; phía bắc có cửa ải Hinh, đất Tuần Dương. Đất đai rộng hơn năm nghìn dặm, tướng sĩ mặc áo giáp trăm vạn người, xe nghìn cỗ, ngựa vạn con, thóc gạo đủ chi dùng mười năm. Đó là cái vốn để làm Bá làm Vương".[35]

Khủng hoảng và diệt vong

[sửa |sửa mã nguồn]

Sở Hoài vương lưu vong

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau khiSở Uy vương qua đời, nước Sở cũng bước vào thời kì suy vong. Vị vua nối ngôi,Sở Hoài vương bước vào tình thế đối đầu vớinước Tần hùng mạnh ở phía tây. Cuối cùng, hai nước cũng bước vào trận chiến giành quyền bá vương với nhau vào năm312 TCN. Mặc dù binh lực của Sở không thua kémTần, nhưng do sự chuẩn bị chưa tốt nên quân Sở gặpthất bại ở Lam Điền, mất 600 dặm Hán Trung về tay Tần.

Năm299 TCN,Sở Hoài vương bị vua Tần lừa sang hội rồi bắt giữ, sau chết ởTần (296 TCN).[36] Nhân nước Sở rối loạn, vua Tần lại đem quân đánh Sở, chiếm được Vũ Quan, và dần tiến vào sâu trong lãnh thổ của Sở. Nước Sở ngày một suy yếu, thất thế không chỉ với Tần mà còn với cảnước Tề ở phía đông.

Năm286 TCN, Sở liên minh cùng vớinước Tềnước Ngụy, cùng đánhnước Tống, chiếm được một phần lãnh thổ của Tống.[37]

Bị mất Dĩnh đô

[sửa |sửa mã nguồn]
Bản đồ Chiến Quốc năm 260 TCN.

Quốc lực của Sở nhanh chóng suy yếu, trong khinước Tần lại ngày một lớn mạnh. Năm280 TCN, quân Tần đánh bại được quân Sở, đến năm278 TCN, tướngTầnBạch Khởi dẫn quân chiếm các đất Yên[38] và Lăng,[39] sau đó tràn vàoDĩnh Đô. Trước sức mạnh của quân Tần, quân Sở không chống nổi, Sở vương phải bỏ chạy khỏi Dĩnh Đô, dời về đất Trần.[36][40] Khu lăng mộ các tiên vương nước Sở bị Bạch Khởi thiêu trụi nên bị đổi gọi là Di Lăng.

Năm277 TCN, Bạch Khởi chiếm đất đất Vu Trung và đất Kiềm Trung[41] của nước Sở, sáp nhập vàoTần. Nước Sở mất đi toàn bộ miền đất phía tây và trở nên yếu thế trước Tần.

Tranh chấp quyền hành

[sửa |sửa mã nguồn]

Bước sang thờiSở Khảo Liệt vương (262 TCN-238 TCN), dưới sự điều hành của lệnh doãn làHoàng Yết, nước Sở chủ trương mở rộng thế lực về phía đông, thôn tínhnước Lỗ ở phía bắc năm256 TCN.[42] Năm241 TCN, Sở thiên đô từ đất Trần về vùng Thọ Xuân để tránh xa nước Tần.

Sau khi Sở Khảo Liệt vương qua đời, nội bộ của Sở lại phát sinh tranh chấp.Hoàng Yết trước đó muốn được làm cha vua, đã dâng một người thiếp là Lý thị đã có mang cho vua Sở, được vua Sở sủng ái,[43] người con trai của Lý thị (vốn là con Hoàng Yết) là Hãn được phong làm thái tử.

Năm238 TCN, Sở Khảo Liệt vương qua đời, người anh của Lý thị là Lý Viên bày kế đặt phục binh trong cung đợi Hoàng Yết vào rồi giết chết,[44] tôn Hãn làm vua, tứcSở U vương (237 TCN-227 TCN. Lý Viên tự xưng là lệnh doãn, điều khiển quốc chính.

Năm227 TCN, người con thứ củaSở Khảo Liệt vương là Phụ Sô giết chết Lý thị, lên ngôi vua, trả ngôi về cho dòng dõi nước Sở.[10] Những cuộc nội loạn liên tiếp đã làm Sở tiếp tục suy yếu, trong khi Tần lại có kế hoạch thống nhất Trung Quốc.

Bị Tần diệt

[sửa |sửa mã nguồn]
Tần vương Chính, sau này là Tần Thủy Hoàng.

Từ năm231 TCN, nước Tần bắt đầu tấn công và tiêu diệt các nước để thống nhất Trung Quốc, lần lượt diệt Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy).[45] Năm225 TCN,Tần vương Chính cử Lý Tín đưa 20 vạn quân đánh nước Sở.[10] TướngHạng Yên đem quân ra trận, đánh tan 20 vạn quân của Lý Tín, buộc Tín rút quân.

Năm224 TCN, vua Tần lại cửVương Tiễn đem 60 vạn quân sang đánh Sở.[40] Vua Sở huy động quân lính trong nước ra quyết chiến.Vương Tiễn dùng kế cố thủ không ra đánh làm quân Sở mất hết nhuệ khí, sau đó mới đưa quân ra. QuânTần đánh cho quân Sở đại bại và phải rút chạy.

QuânTần tiến vào Thọ Xuân, bắt sốngSở vương Phụ Sô.Hạng Yên bỏ chạy về Lan Lăng (phía nam sông Trường Giang), lại tìm lập người tông thất nước Sở là Xương Bình quân lên ngôi. Năm223 TCN,Vương Tiễn đuổi theo tiến đánh, Xương Bình quân tử trận. Hạng Yên tuyệt vọng bèn tự vẫn. Nước Sở diệt vong.[10][46]

Không bao lâu sau khi diệt Sở, Tần vương Chính thống nhất Trung Quốc, tự xưng làTần Thủy Hoàng lập ranhà Tần.[45]

Phục quốc cuối đời Tần

[sửa |sửa mã nguồn]

Trần Thắng và Cảnh Câu

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau khiTần Thủy Hoàng qua đời,nhà Tần ngày một suy yếu. Tháng 7 năm209 TCN,Trần Thắng,Ngô Quảng khởi nghĩa chống lại nhà Tần. Sau khi đánh chiếm làng Đại Trạch,Trần Thắng đánh lấy đất Kỳ và chia quân làm 2 đường: tự mình đánh phía tây, sai tướngCát Anh tiến về phía đông.[47]Cát Anh tiến đến Đông Thành, tìm đượcTương Cương là dòng dõi vua Sở bèn lập làm Sở Vương, tái lập nước Sở.

Trong khi đó, Trần Thắng cũng liên tiếp giành được thắng lợi trước quân độinhà Tần chiếm được đất Trần, tự lập làm Trương Sở vương.[48] Như vậy cùng lúc đó có tới hai người tự xưng là vua Sở.

Cát Anh ở Đông Thành nghe tinTrần Thắng tự lập, bèn giếtTương Cương, trở về với Trần Thắng.

Tuy nhiên sau đó Trần Thắng không còn được lòng người, các thủ hạ ly khai, tự lập làm vương.[47] Thủ hạ củaNgô Quảng là Điền Tang nổi dậy giết Quảng, đem đầu dâng choTrần Thắng. Thắng lập Tang làm Lệnh doãn. Tuy nhiên ít lâu sau, Điền Tang bị tướng Tần làChương Hàm giết chết, Chương Hàm lại kéo quân đánh đất Trần. Trần Thắng bỏ chạy.[47]

Năm208 TCN, Trần Thắng bị người đánh xe giết chết, thụy là Ẩn vương. TướngTần Gia lập dòng dõi vua Sở làCảnh Câu làm Sở Giả vương. Giả vương chịu chiêu nạp tướng mới khởi nghĩa là Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ sau này).[49] Lúc bấy giờ, con tướng quânHạng YênHạng Lương khởi nghĩa ở đất Ngô, nghe tin Cảnh Câu tự lập bèn đem quân đánh,[50] giết Sở Giả vương.

Thời Sở Nghĩa Đế

[sửa |sửa mã nguồn]

Tháng 6 năm208 TCN, Hạng Lương tìm được con cháu nước Sở là Mi Tâm, bèn lập lên làmSở Hoài vương để có danh nghĩa chống Tần. Hoài vương phongTrần Anh làm Thượng trụ quốc,Hạng Lương làm Vũ Tín quân.[46]

Cùng năm đó, tướng Tần làChương Hàm đem quân đánh nước Tề.Hạng Lương đem quân cứu Tề, bị Chương Hàm đánh bại và giết chết ở Định Đào vào tháng 9.

Nghe tin Hạng Lương chết, Sở Hoài vương chỉnh đốn lại đội ngũ, bàn ra quân đánh Tần và cứu nước Triệu đang bịChương Hàm vây gắt, ra giao ước với chư hầu:

"Ai vào bình định Quan Trung trước thì sẽ cho người ấy làm vua".

Cuối cùng đạo quân của Lưu Bang vào Quan Trung[51] trước nhưng Hạng Vũ nắm được quyền hành, tự lập làm Sở Bá vương, tôn Hoài vương làmSở Nghĩa Đế.[46]

Năm207 TCN, Sở Nghĩa Đế thiên đô về Hu Di, phong cho Lưu Bang làm Vũ An hầu, Lữ Thần làm Tư đồ, cha thần là Thanh làm Lệnh doãn, cònHạng Vũ được phong làm Lỗ công.

Lưu-Hạng phân tranh

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Chiến tranh Hán-Sở
Tây Sở Bá vương Hạng Vũ

Tháng 4 năm206 TCN, Hạng Vũ dời Sở Nghĩa đế về Trường Sa, ở Sâm huyện, rồi bí mật sai Cửu Giang vương Kình Bố và Hành San vươngNgô Nhuế sát hại Nghĩa Đế trênsông Trường Giang, tự mình chiếm lấy nước Sở.

Tháng 9 năm202 TCN, Hạng Vũ bịLưu Bang đánh bại, bèn tự vẫn ở sông Ô Giang.[46][49]Chiến tranh Hán-Sở kết thúc kèm theo sự diệt vong của nước Sở. Sau này, Lưu Bang lên làm Hoàng đế, phong cho thủ hạ làHàn Tín làm Sở vương.

Văn hoá

[sửa |sửa mã nguồn]
Sở Quốc
(kim văn, khoảng năm800 TCN)

Ảnh hưởng từ các nền văn hóa khác

[sửa |sửa mã nguồn]

Dựa trên những khám phá khảo cổ học, văn hóa Sở ban đầu tương tự với văn hóa nước Triệu. Sau này, văn hóa Sở hấp thu thêm nhiều yếu tố bản xứ khi đất nước mở rộng ra phía nam và phía đông, phát triển một văn hóa riêng biệt so với văn hóa truyền thống của các nước chư hầu bắc Chu.

Những đồ vật dùng trong tang lễ buổi đầu nước Sở chủ yếu gồm các chậu đồng theo kiểu Chu. Những mộ Sở sau này, đặc biệt ở giai đoạnChiến Quốc, chứa đựng những đồ vật khác biệt mang đặc trưng Sở như những đồsơn mài,sắttơ lụa, cùng với sự giảm sút những đồ vật làm bằng đồng.

Một yếu tố mang đặc tính nước Sở thường thấy là sự thể hiện những con rắn, rồng và những loài vật giống rắn. Một số nhà khảo cổ học cho rằng nước Sở có lẽ từng có những mối liên hệ văn hóa vớinhà Thương trước đó, bởi vì nhiều yếu tố Sở cũng đã xuất hiện sớm hơn ở những địa điểm có nền văn hóaThương, như các yếu tố thể hiện những vị thần có đuôi rắn.

Lễ nghi và âm nhạc

[sửa |sửa mã nguồn]

Văn hóa Sở muộn được biết đến với sự tương đồng của nó với những trình tự nghi thức kiểupháp sư. Sở cũng nổi tiếng về âm nhạc đặc trưng của mình; các bằng chứng khảo cổ cho thấy âm nhạc Sở khác biệt so với âm nhạc Chu; nhạc Sở có khuynh hướng sử dụng nhiều phong cách biểu diễn khác nhau, cũng như các nhạc cụ đặc hữu; Tại Sở,đàn sắt được ưa chuộng hơnđàn cổ cầm, trong khi cả hai nhạc khí này được sử dụng như nhau tại các nước chư hầu bắc Chu.

Sở có các mối quan hệ thường xuyên với các dân tộc khác ở phương nam, nổi tiếng nhất là các nướcBa,Việt và các nhóm tộcBách Việt. Nhiều lễ nghi và các đồ vật dùng trong mai táng kiểuBaViệt đã được tìm thấy bên trong lãnh thổ Sở, cùng tồn tại với kiểu và đồ dùng mai táng của Sở.

Di tích mộ cổ của nước Sở được khai quật ở tỉnh Hà Nam
Di tích mộ cổ của nước Sở được khai quật ở tỉnh Hà Nam

Những vị vua đầu tiênnhà Hán đã lãng mạn hóa văn hóa Sở, khiến xuất hiện một xu hướng nghiên cứu các yếu tố văn hóa Sở nhưSở Từ. Sau thời nhà Hán, Sở lại mang tiếng là một nước man rợ; các học giảKhổng giáo không ưa văn hóa Sở, chỉ trích thứ âm nhạc "dâm dật" và những lễ nghi kiểu pháp sư của nó.

Ngôn ngữ

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau thời gian dài bịHán hóa, tiếng Sở đến nay đã bị thất truyền. Chỉ có một vài từ Sở còn lại được đến nay, được ghi trong một số thư tịch cổ chữ Hán thờiChiến Quốc. Hiện chưa có một cố gắng thu thập các từ vựng Sở từ các nguồn này một cách có hệ thống.[52] Các chữ được khẳng định là thuộc ngôn ngữ Sở được liệt kê tạiDự án nghiên cứu ngôn ngữ Sở tại Đại học Massachusetts AmherstLưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2007 tạiWayback Machine

Những người đất Sở nổi tiếng

[sửa |sửa mã nguồn]
Văn phong và cách dùng từ trong bài hoặc đoạn nàykhông bách khoa. Xin vui lòng giúpbiên tập lại. (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)
  • Khuất Nguyên, nhà thơ nổi tiếng thời cổ đại. Ông là một vị quan trong triều và là người yêu nước, ông đã đưa ra ý kiến thống nhất Sở với các nước chư hầu khác để chống lại sự bành trướng của Tần, tuy nhiên không được ai nghe theo; ông bị vua Sở xua đuổi. Theo tục truyền, đau khổ khi biết tin về cuộc xâm lược củaTần, ông đã trầm mình tại sông Mịch La (汩罗江).[53]
  • Lưu Bang, hoàng đế sáng lậpnhà Hán, sinh trưởng trên phần đất thuộc tỉnhGiang Tô ngày nay, vốn là đất Sở thời Chiến Quốc.
  • Hạng Vũ, một quý tộc nước Sở cũ, nổi dậy và trở thành một thủ lĩnh chống Tần, sau khi đánh tan quânTần, đã tự xưng là "Tây Sở Bá Vương", là một đối thủ của người sáng lậpHán triều,Lưu Bang. Ông là một vị tướng tài ba trên chiến trường nhưng lại kiêu ngạo nên đã phải chịu thất bại.
  • Dưỡng Do Cơ, danh tướng dưới thời Sở Trang Vương và Sở Cung Vương (khoảng 600 TCN), nổi tiếng với tài bắn tên. Bên lềtrận Yên Lăng năm 575 TCN, lúc trận đánh chưa khai màn, các tướng sĩ tập dượt phía sau trại, ông cho đánh dấu 3 chiếc lá cây dương 1, 2, 3, rồi đứng cách xa 100 bước, lần lượt bắn 3 mũi tên xuyên thủng 3 chiếc lá theo đúng thứ tự. Tài bắn này đã trở nên câu thành ngữ "bách bộ xuyên dương" còn truyền tụng đến ngày nay.

Vương tộc thế phổ

[sửa |sửa mã nguồn]

Nước Sở tính từ đời Dục Hùng tới đờiXương Bình quân bịTần diệt năm223 TCN gồm có 46 vua. Nước Sở được lập lại cuối thờiTần, truyền được 5 vua nữa, tổng cộng 51 vua. Dưới đây là bảng liệt kê các vị vua nước Sở (theo Sử ký)

Thứ tự (thế hệ)Thụy hiệuTên húyThời gian ở ngôiSố nămQuan hệ với vua trướcGhi chú
1 (1)Sở Dục HùngDục Hùngthầy củaChu Văn vương
2 (2)Sở Hùng LệHùng Lệ/Mị Lệcon Dục Hùng
3 (3)Sở Hùng CuồngHùng Cuồng/Mị Cuồngcon Hùng Lệ
4 (4)Sở Hùng DịchHùng Dịch (thụ phong ở đất Kinh)con Hùng Cuồng
5 (5)Sở Hùng NgảiHùng Ngải/Mị Ngảicon Hùng Dịch
6 (6)Sở Hùng ĐánHùng Đán/Mị Đáncon Hùng Ngải
7 (7)Sở Hùng ThắngHùng Thắng/Mị Thắngcon Hùng Đán
8 (7)Sở Hùng DươngHùng Dương/Mị Dươngem Hùng Thắng
9 (8)Sở Hùng CừHùng Cừ/Mị Cừcon Hùng Dương
10 (9)Sở Hùng ChíHùng Chí/Mị Chí/Hùng Chí Hồngcon Hùng Cừ
11 (9)Sở Hùng DuyênHùng Duyên/Mị Duyên/Chấp Tì?-848 TCNem Hùng Chí
12 (10)Sở Hùng DũngHùng Dũng/Mị Dũng747 TCN-838 TCN10con Hùng Duyên
13 (10)Sở Hùng NghiêmHùng Nghiêm/Mị Nguyên837 TCN-828 TCN10em Hùng Dũng
14 (11)Sở Hùng SươngHùng Sương/Mị Sương/Bá Sương827 TCN -822 TCN6con Hùng Nghiêm
15 (11)Sở Hùng TuânHùng Tuân/Mị Tuân/Quý Tuân821 TCN -800 TCN22em Hùng Sươnggiành ngôi với hai anh
16 (12)Sở Hùng NgạcHùng Ngạc/Mị Ngạc799 TCN -791 TCN9con Hùng Tuấn
17 (12)Sở Nhược NgaoHùng Nghi (Mị Nghi)790 TCN -764 TCN27em Hùng Ngạc
18 (13)Sở Tiêu NgaoHùng Khảm/Mị Khảm763 TCN -758 TCN6con Nhược Ngao
19 (14)Sở Phần Mạo/Sở Lệ vươngHùng Thuận/Mị Thuận757 TCN -741 TCN17con Tiêu Ngao
20 (15)Sở Vũ vươngHùng Thông/Mị Thông740 TCN - Tháng 3/690 TCN51con Phần Mạo
21 (16)Sở Văn vươngHùng Xi/Mị Xi689 TCN - 6/675 TCN TCN15con Vũ vương
22 (17)Sở Đổ NgaoHùng Gian/Mị Gian674 TCN -672 TCN3con Văn vươngbị giết
23 (17)Sở Thành vươngHùng Uẩn/Mị Uẩn671 TCN - Tháng 10/626 TCN46em Đổ Ngaotự sát
24 (18)Sở Mục vươngHùng Thương /Mị Thương625 TCN -614 TCN12con Mục vương
25 (19)Sở Trang vươngHùng Lữ (Mị Lữ)613 TCN -591 TCN23con Mục vương
26 (20)Sở Cung vươngHùng Thẩm (Mị Thẩm)590 TCN -560 TCN31con Trang vương
27 (21)Sở Khang vươngHùng Chiêu/Mị Chiêu559 TCN - Tháng 9/545 TCN15con trưởng Cung vương
28 (22)Sở Giáp NgaoHùng Viên (Mị Viên)544 TCN -541 TCN4con Khang vươngbị giết
29 (21)Sở Linh vươngHùng Vi (Mị Vi)540 TCN -529 TCN12con Cung vươngbị giết
30 (21)Sở vương Bỉ/Sở Ti NgaoHùng Bỉ/Mị Bỉ529 TCN1em Linh vươngtự sát
31 (21)Sở Bình vươngHùng Khí Tật/Hùng Cư528 TCN - Tháng 9/516 TCN13em Bỉ
32 (22)Sở Chiêu vươngHùng (Mị) Trân/Chẩn515 TCN - Tháng 7/489 TCN27con Bình vương
33 (23)Sở Huệ vươngHùng Chương (Mị Chương)488 TCN -432 TCN[54]57con Chiêu vương
34 (24)Sở Giản vươngHùng Trung (Mị Trung)431 TCN -408 TCN24con Huệ vương
35 (25)Sở Thanh vươngHùng Đương (Mị Đương)407 TCN -402 TCN6con Giản vươngbị giết
36 (26)Sở Điệu vươngHùng Nghi (Mị Nghi)401 TCN -381 TCN21con Thanh vươngbị bắn vào thây
37 (27)Sở Túc vươngHùng Tang (Mị Tang)380 TCN -370 TCN11con Điệu vương
38 (27)Sở Tuyên vươngHùng/Mị Lương Phu369 TCN -340 TCN30em Túc vương
39 (28)Sở Uy vươngHùng Thương/Mị Thương339 TCN -329 TCN11con Tuyên vương
40 (29)Sở Hoài vươngHùng Hòe (Mị Hòe)328 TCN -299 TCN30con Uy vươngbị giam ở Tần
41 (30)Sở Tương vươngHùng Hoành (Mị Hoành)298 TCN -263 TCN36con Hoài vương
42 (31)Sở Khảo Liệt vươngHùng Nguyên/Mị Nguyên262 TCN -238 TCN25con Tương vương
43 (32)Sở U vươngHùng Hãn/Mị Hãn237 TCN -228 TCN10con Khảo Liệt vương
44 (32)Sở Ai vươngHùng Do (Mị Do)2281em U vươngbị giết
45 (32)Sở vương Phụ SôHùng Phụ Sô/Mị Phụ Sô227 TCN -223 TCN5anh Ai vươngbị bắt
46 (32)Xương Bình quânHùng Khải (Mị Khải)223 TCN1anh Phụ Sôtử trận
47Tương Cương209 TCN1bị giết
48Sở Ẩn vươngTrần Thắng209 -208 TCN2khởi nghĩa nông dânbị giết
49Sở Giả vươngCảnh Câu/Mị Câu208 TCN1con cháu nước Sởbị giết
50Sở Nghĩa ĐếHùng Tâm/Mị Tâm208 TCN -206 TCN3dòng dõi vua Sởbị giết
51Sở Bá vươngHạng Vũ/Hạng Tịch206 TCN -202 TCN5tự tử

Thế phả các quân chủ

[sửa |sửa mã nguồn]
Thế phả


Dục Hùng
Thụ Thúc
Đấu thị
Hùng Lệ
Hùng Cuồng
Hùng DịchKhuất Tuần
Khuất thị
Hùng Ngải
Hùng Đán
Hùng ThắngHùng Dương
Hùng Cừ
Hùng Khang
Hùng Chí
Quỳ quốc
Sở Hùng Duyên
Hùng Dũng
?-847 TCN - 838 TCN
Hùng Nghiêm
?-838 TCN - 828 TCN
Hùng Sương
?-828 TCN - 822 TCN
Trọng Tuyết
?- 822 TCN
Thúc KhamHùng Tuấn
?-822 TCN - 800 TCN
Hùng Ngạc
?-800 TCN - 791 TCN
Nhược Ngao
?-791 TCN - 764 TCN
Lệ vương
?-764 TCN - 758 TCN
Tiêu Ngao
?-758 TCN - 741 TCN
Vũ vương
?-741 TCN - 690 TCN
Văn vương
?-690 TCN - 675 TCN
Vương tử Thiện
Đổ Ngao
?-675 TCN - 672 TCN
Thành vương
?-672 TCN - 626 TCN
Vương tôn Khải
Mục vương
?-626 TCN - 614 TCN
Vương tử Chức
Trang vương
?-614 TCN - 591 TCN
Công tử Anh TềCông tử Nhâm PhuThẩm Doãn Tử Kinh
Thẩm Doãn thị
Vương tử Dương
Dương thị
Cung vương
600 TCN -591 TCN - 560 TCN
Vương tử Cốc ThầnVương tử Trinh
Nang thị
Công tử NgọCông tử Truy Thư
Khang vương
?-560 TCN - 545
Linh vương
?-541 TCN - 529 TCN
Ti Ngao
?-529 TCN
Công tử Hắc QuangBình vương
?-529 TCN - 516 TCN
Khí Tật
Giáp Ngao
?-545 TCN - 541 TCN
Thái tử LộcCông tử Bãi ĐịchTử Tây
Cảnh thị
Thái tử KiếnCông tử KếtCông tử KhảiChiêu vương
?-516 TCN - 489 TCN
MạcBình HạCông Tôn NinhCông Tôn TriêuBạch công ThắngCông Tôn YênCông Tôn KhoanBìnhHuệ vương
?-489 TCN - 432 TCN
Tử Lương
Chiêu thị
Điền công Đà Thành
Giản vương
?-432 TCN - 408 TCN
Thanh vương
?-408 TCN - 402 TCN
Điệu vương
?-402 TCN - 381 TCN
Túc vương
?-381 TCN - 370 TCN
Sở Tuyên vương
?-370 TCN - 340
Đông Trạch công
Điệu thị
Lăng quân
Uy vương
?-340 TCN - 329 TCN
Hoài vương
?-329 TCN - 299 TCN - 296 TCN
Khoảnh Tương vương
?-299 TCN - 264 TCN
Dương Văn quânXuân Thân quânNgạc quân KhảiTử Lan
Khảo Liệt vương
?-264 TCN - 238 TCN
Sở Nghĩa Đế
?-208 TCN - 206 TCN
Sở U vương
?-238 TCN - 228 TCN
Phụ Sô
?-228 TCN - 223 TCN
Ai vương
?-228
Xương Bình quân
?- 223 TCN


Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Nay là huyện cấp thịTích Xuyên, địa cấp thịNam Dương, tỉnhHà Nam
  2. ^Nay là huyệnNghi Thành, địa cấp thịTương Dương, tỉnhHồ Bắc
  3. ^Nay là địa cấp thịKinh Châu, tỉnhHồ Bắc
  4. ^Nay là huyệnHoài Dương, địa cấp thịChu Khẩu, tỉnhHà Nam
  5. ^Nay là huyệnThọ, địa cấp thịLục An, tỉnhAn Huy
  6. ^Nay là địa cấp thịTừ Châu, tỉnhtỉnh Giang Tô
  7. ^”MDBG”, Sökord: 战国策
  8. ^nay thuộcTân Trịnh,Hà Nam, Trung Quốc
  9. ^Âm đọc là "Mị", ý là "Hùng" ().
  10. ^abcdefghijklmnopqrSử ký, Sở thế gia
  11. ^Nay thuộc huyện Tích Xuyên, tỉnh Hà Nam,Trung Quốc
  12. ^abSử ký, Chu bản kỉ
  13. ^Nay nằm ở địa phận Hồ Bắc,Trung Quốc
  14. ^Lãnh thổnước Tùy nằm ở Tùy Châu, Hồ Bắc,Trung Quốc
  15. ^Tả Khâu Minh."Xuân Thu Tả thị truyện, Hoàn công năm 8". Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2013.
  16. ^Nay nằm ở Vân Dương,Hồ Bắc,Trung Quốc
  17. ^Nay nằm ở Kinh Môn hay Tương Phàn thuộc tỉnh Hồ Bắc
  18. ^Nay thuộc Tương Dương, Hồ Bắc, Trung Quốc
  19. ^Sử ký, Quản Sái thế gia
  20. ^abSử ký, Tống Vi tử thế gia
  21. ^Tả Khâu Minh."Xuân Thu Tả thị truyện, Hi công năm 23". Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2013.
  22. ^abSử ký, Tấn thế gia
  23. ^Tả Khâu Minh."Xuân Thu Tả thị truyện, Hi công năm 28". Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2013.
  24. ^Nằm ở phía nam kinh đô Lạc Dương của nhà Chu
  25. ^Sử ký, Trịnh thế gia
  26. ^Tả Khâu Minh."Xuân Thu Tả thị truyện. Tuyên công năm 13". Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2013.
  27. ^Tả Khâu Minh."Xuân Thu Tả thị truyện, Tương công năm 27". Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2013.
  28. ^Tả Khâu Minh."Xuân Thu Tả thị truyện, Chiêu công năm 13". Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2013.
  29. ^Sử ký, Ngô Thái Bá thế gia
  30. ^Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, sách đã dẫn, tr 301-302
  31. ^Tả Khâu Minh."Xuân Thu Tả thị truyện, Định công năm 5". Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2013.
  32. ^Sử ký, Trần Kỉ thế gia
  33. ^Sử ký, Tôn Vũ Ngô Khởi liệt truyện
  34. ^Sử ký, Việt vương Câu Tiễn thế gia
  35. ^Sử ký, Tô Tần liệt truyện
  36. ^abSử ký Tần bản kỉ
  37. ^Sử ký, Điền Kính Trọng Hoàn thế gia
  38. ^Nay nằm ở phía đông nam Nghi Thành, Hồ Bắc,Trung Quốc
  39. ^Tây Bắc Nghi Xương, tỉnhHồ Bắc
  40. ^abSử ký, Bạch Khởi Vương Tiễn liệt truyện
  41. ^nay thuộc miền đất nằm giữa đông Tứ Xuyên, tây Hồ Bắc, tây Hồ Nam và một phần bắc bộ của tỉnh Quý Châu
  42. ^Sử ký, Lỗ Chu công thế gia
  43. ^Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, sách đã dẫn, tr 330
  44. ^Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, sách đã dẫn, tr 332
  45. ^abSử ký, Tần Thủy Hoàng bản kỉ
  46. ^abcdSử ký, Hạng Vũ bản kỉ
  47. ^abcSử ký, Trần Thiệp thế gia
  48. ^Nghĩa là nước Sở mở rộng, vì đất căn bản của Sở ban đầu chỉ có ở vùng Kinh Nam, sau mới diệt nước Trần sáp nhập vào bản đồ
  49. ^abSử ký, Cao Tổ bản kỉ
  50. ^Vì Hạng Lương chưa biết Trần Thắng đã chết
  51. ^Nay thuộc Thiển Tây, Trung Quốc
  52. ^"Dự án nghiên cứu ngôn ngữ Sở tại Đại học Massachusetts Amherst".Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2006.
  53. ^Sử ký, Khuất Nguyên liệt truyện
  54. ^Dưới thời Huệ vương, năm 478 TCN, Bạch công tên là Thắng nổi dậy xưng vương nhưng sau bị dẹp và không được tính là vua của Sở

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Defining Chu: Image And Reality In Ancient China, Edited by Constance A. Cook and John S. Major,ISBN 0-8248-2905-0
  • Đông Châu Liệt Quốc, bản dịch của Mộng Bình Sơn
  • So, Jenny F.,Music in the Age of Confucius,ISBN 0-295-97953-4
  • Sử ký Tư Mã Thiên, các thiên
    • Sở thế gia
    • Tấn thế gia
    • Tần bản kỉ
    • Tống Vi tử thế gia
    • Chu bản kỉ
    • Tần Thủy Hoàng bản kỉ
    • Hạng Vũ bản kỉ
    • Cao Tổ bản kỉ
    • Tôn Vũ Ngô Khởi liệt truyện
    • Bạch Khởi Vương Tiễn liệt truyện
    • Trịnh thế gia
    • Lỗ Chu công thế gia
    • Xuân Thân quân liệt truyện
    • Ngô Thái Bá thế gia
    • Việt Vương Câu Tiễn thế gia
    • Tô Tần liệt truyện
    • Điền Kính Trọng Hoàn thế gia
  • Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (2001),Chiến Quốc sách, Nhà xuất bản Văn học

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Các nước thờiTây Chu
Ân • Ba • Bi • Cát • Cô Trúc • Cử • Chu (邾) • Chu (周) • Chúc • Đại • Đam • Đàm (譚) • Đàm (郯) • Đạo • Đằng • Đặng • Đường • Hàn (寒) • Hàn (韓) • Hình • Hoàng • Hoạt • Hứa • Kế • Kỷ (杞) • Kỷ (紀) •  • Lai • Liệu • Lỗ • Ngạc • Nghĩa Cừ • Ngô • Ngu • Ngụy • Nhâm • Nhuế • Nhược • Ôn • Phong • Quản • Đông Quắc (東虢) • Tây Quắc (西虢) • Quyền • Sái • Sở • Sơn Nhung • Tào • Tấn • Tất • Tề • Thẩm • Thân • Thục • Tiêu • Tiết • Tống • Trần • Thiệu • Trịnh • Tùy • Từ • Tức • Vệ • Việt • Vinh • Yên
Các nước thờiXuân Thu
Triều đại
Các nước quan trọng
Lỗ • Ngô • Sái • Sở • Tào • Tần • Tấn • Tề • Tống • Trần • Trịnh • Vệ • Việt • Yên
Các nước khác
Ba • Bi • Cam • Cát • Cô Trúc • Cử • Cối • Củng • Chú • Doãn • Đái • Chu (邾) • Chu (周) • Đại • Đam • Đàm (譚) • Đàm (郯) • Đạo • Đằng • Đặng • Đường • Hàn • Hình • Hoàng • Hoạt • Hứa • Kế • Kỷ (杞) • Kỷ (紀) •  • Lai • Lạm • Liệu • Lương • Lưu • Mao • Nghĩa Cừ • Ngu • Ngụy • Nhâm • Nhuế • Nhược • Ôn • Phàn • Quắc • Quyền • Quách • Sùng • Sơn Nhung • Thẩm • Thân • Thục • Thi • Thành • Tiết • Thiệu • Tăng (鄫) • Tăng (曾) • Tùy • Từ • Tức • Tuân • Tiểu Chu • Tiểu Quắc • Ứng • Vinh
Các nước thờiChiến Quốc
Triều đại
Thất hùng
Hàn  • Ngụy  • Sở  • Tần  • Tề  • Triệu  • Yên
Các tiểu quốc
Ba  • Bi  • Tây Chu  • Đông Chu  • Đằng  • Lỗ  • Nghĩa Cừ  • Nhâm  • Tấn  • Thục  • Tiết  • Ti Lương  • Tống  • Trâu  • Trịnh  • Trung Sơn  • Vệ  • Việt
Các đời vuanước Sở
thời tiền chư hầu
thờichư hầu nhà Chu
thời Vương quốc
thời Tần mạt và Tây Sở
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Sở_(nước)&oldid=74523074
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp