Ringgit Malaysia (còn được gọi là đồng Đôla Malaysia), là đơn vị tiền tệ chính thức củaMalaysia. Một ringgit được chia thành 100 sen (xu) và có ký hiệu là MYR.
Vàongày 7 tháng 12 năm2005, tiền kim loại RM1 đã bị hủy bỏ và rút khỏi lưu thông. Điều này một phần là do các vấn đề với việc tiêu chuẩn hóa (hai phiên bản tiền xu khác nhau đã được đúc) vàgiả mạo.
Ba loại tiền xu thoi vàng, "Kijang Emas" (kijang (một loạinai) là logo chính thức của Ngân hàng Negara Malaysia) cũng được phát hành với giá trị danh nghĩa RM 50, RM 100 và RM 200. Loại tiền này đã được phát hành ra7 tháng 7 năm2001 bởi Ngân hàng Negara Malaysia và do Royal Mint of Malaysia Sdn Bhd đúc. Giá mua và bán lại của Kijang Emas được giá thị trườngvàng quốc tế đang lưu hành xác định.
Bank Negara Malaysia đã phát hành tiền giấy dollar Malaysia lần đầu vào tháng 6 năm 1967 với các mệnh giá $1, $5, $10, $50 và $100. Mệnh giá $1000 đã được phát hành lần đầu năm1968. Tiền giấy Malaysia đã luôn luôn mang hình ảnh củaTuanku Abdul Rahman,Yang di-Pertuan Agong đầu tiên của Malaysia.
Các máyATM thường cho ra giấy bạc RM50, hoặc hiếm hoi hơn, giấy bạc RM10 cùng với giấy bạc RM50.
Giấy bạc Malaysia đã từ lâu theo mộtmã màu xuất phát từ thời thuộc địa. Các mệnh giá thấp hơn thì kiểm mẫu này được Singapore và Brunei áp dụng theo và khi Bank Negara giới thiệu lần đầu giấy bạc RM2 nó sao chép màu hoa cà của tờ giấy bạc 2 dollar Singapore.
RM1 - xanh da trời
RM2 - hoa cà (không còn lưu hành nữa)
RM5 - xanh lá cây
RM10 - đỏ
RM20 - nâu/trắng (không còn lưu hành nữa)
RM50 - xanh lá cây/xám
RM100 - tím
RM500 - cam (không còn lưu hành nữa)
RM1000 - xanh dương/xanh lá cây (không còn lưu hành nữa)
Để tưởng niệmThế vận hội Khối thịnh vượng chung năm 1998 ởKuala Lumpur, một loạitiền polymer RM50 đã được phát hành, đánh dấu việc Malaysia sử dụng tiền giấy polymer lần đầu tiên. Tiền mệnh giá này hiếm khi được thấy trong giao dịch hàng ngày mà người ta chỉ sưu tập làm kỷ niệm.