Ở cấp độ quốc tế, phạm vi của khái niệmSpratly Islands vẫn chưa được xác định rõ và đang trong vòng tranh cãi.[4] Ở cấp độ quốc gia cũng có các cách hiểu khác nhau. Tuy Đài Loan, Trung Quốc và Việt Nam trên danh nghĩa đều tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo, nhưng khái niệmquần đảo Nam Sa trong nhận thức của Đài Loan và Trung Quốc là bao hàm toàn bộ các thực thể địa lý nằm bên trong phần phía nam củađường chín đoạn. Đối với Philippines, phạm vi tuyên bố chủ quyền của nước này bao trùm hầu hết quần đảo và được gọi làNhóm đảo Kalayaan. Về phần Malaysia, nước này đòi hỏi một số thực thể ở phía nam của quần đảo. Cuối cùng, với Brunei, hiện chưa rõ nước này đòi hỏi cụ thể thực thể địa lý nào vì Brunei mới chỉ đưa ra yêu sách vềvùng đặc quyền kinh tế vàthềm lục địa mà trong vùng đó có vài thực thể thuộc vào quần đảo này.
TạiHội nghị San Francisco năm 1951 về việc phân định các vùng lãnh thổ, hải đảo màĐế quốc Nhật Bản từng chiếm giữ, quần đảo Trường Sa là đối tượng tuyên bố chủ quyền của nhiều bên tranh chấp bao gồmLiên hiệp Pháp, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia vàIndonesia. Kết quả là Hội nghị không công nhận chủ quyền của quốc gia nào, quần đảo này được coi là vô chủ và càng gây ra tranh chấp dữ dội hơn sau này.
Tất cả những nước tham gia tranh chấp quần đảo này, trừ Brunei, đều có quân đội cùng vũ khí, khí tài, thiết bị và nhân viên quân sự đồn trú tại nhiều căn cứ trên các đảo nhỏ và đá ngầm khác nhau. Năm 1956, Đài Loan chiếm giữ đảoBa Bình. Đầu thập niên 1970, Philippines chiếm 7 đảo và các rạn đá thuộc khu vực phía đông quần đảo. Tháng 3 năm 1988, Việt Nam và Trung Quốcđụng độ quân sự tại ba rạn đá làGạc Ma,Cô Lin vàLen Đao. Tháng 2 năm 1995 và tháng 11 năm 1998, giữa Trung Quốc và Philippines đã hai lần bùng phát căng thẳng chính trị do hành động giành và củng cố quyền kiểm soátđá Vành Khăn của phía Trung Quốc. Dù rằngCông ước Liên Hợp Quốc về Luật biển đã ra đời nhằm xác định các vấn đề về ranh giới trên biển nhưng bản thân Công ước lại không có điều khoản nào quy định cách giải quyết các tranh chấp về chủ quyền đối với các thực thể thuộc quần đảo.[5]
Địa lý tự nhiên
Quần đảo Trường Sa là một tập hợp gồm nhiềuđảo san hô,cồn cát,rạn đá (ám tiêu)san hô nói chung (trong đó có rất nhiềurạn san hô vòng, tứcrạn vòng hay rạn đá san hô vòng, "đảo" san hô vòng) và bãi ngầm rải rác từ 6°12' đến 12°00'vĩ Bắc và từ 111°30' đến 117°20'kinh Đông, trên một diện tích gần 160.000 km²[6] (nguồn khác: 410.000 km²) ở giữabiển Đông.[Ghi chú 1] Quần đảo này có độ dài từ tây sang đông là 800 km, từ bắc xuống nam là 600 km với độ dài đườngbờ biển đạt 926 km.[7][8] Mỗi tài liệu lại có một con số thống kê riêng về số lượng thực thể địa lý của quần đảo này: hơn 100 đảo và rạn đá ngầm (CIA),[7] 137 "đảo-đá-bãi" (Nguyễn Hồng Thao),[9] khoảng 160 đảo nhỏ-cồn cát-rạn đá ngầm-bãi cát ngầm/bãi cạn-bãi ngầm đã đặt tên (Trung Quốc).[10][Ghi chú 2]
Quần đảo Trường Sa
Tổng diện tích đất nổi của quần đảo rất nhỏ, không quá 5 km²[7] (nguồn khác: 11 km²[9]) do số lượngđảo thực sự rất ít mà chủ yếu là cácrạn san hô thường vàrạn san hô vòng chìm ngập dưới nước khithủy triều lên. Các hònđảo san hô ở Trường Sa tương đối bằng phẳng và thấp, ngay cả khi so sánh với một quần đảo san hô khác gần đó làquần đảo Hoàng Sa. Theo CIA, điểm cao nhất của Trường Sa nằm trên đảoSong Tử Tây với cao độ 4 m so vớimực nước biển.[7]
Địa hình và địa chất
Quần đảo Trường Sa là một vỉ lục địa bị nhận chìm vào đầuđại Kainozoi do tách giãn lục địaĐông Nam Á, xoay chuyển và trượt dần về phía tây nam.[11]Thềm lục địa Trường Sa là một dải địa hình tương đối hẹp, kéo dài tự nhiên của các đảo từ độ sâu 0–200 m quanh đảo, sâu từ 60 đến 80 m. Thành phần cấu tạo dải này thường là các mảnh vụnsan hô, chủ yếu là hạt thô. Trong khi đó, sườn lục địa Trường Sa là một dải bao quanh thềm lục địa, kéo dài từ mép thềm lục địa đến độ sâu 2.500 m, có nơi lên tới hơn 3.000 m; thành phần cấu tạo chủ yếu là từ đá gốc. Các bãi ngầm có bề mặt sườn là các bề mặt đổ dốc từ độ sâu 170 đến 1.500 m. Sườn của các rạn đá ngầm nhưđá Tây,Vành Khăn,Phan Vinh có sườn dốc gần như thẳng đứng.[12]
Cả quần đảo bị chia cắt bởi các hệ thốngđứt gãy có phương đông bắc - tây nam và tây bắc - đông nam, gồm ba nhóm chính là nhóm đứt gãy đông bắc - tây nam (nổi bật nhất), nhóm đứt gãy tây bắc - đông nam và nhóm đứt gãy hướngkinh tuyến - ávĩ tuyến (lệch so với vĩ tuyến).[13] Ba nhóm này chia quần đảo Trường Sa thành ba cụm đảo có quy mô khác nhau:
Lịch sử hình thành cácđảo thuộc quần đảo Trường Sa bắt đầu từ cuốithế Pleistocen, đầuthế Holocen, và đa số chúng là phần nhô cao của các rạn vòng.[15] Theo Nguyễn (1985), các rạn vòng nơi đây được đặc trưng bởi dạng kéo dài theo hướng đông bắc-tây nam, trong khi các đảo và mỏm đá ngầm thường nằm trên góc tây bắc, trái ngược với quy luật phân bố đảo trên các rạn vòng khác trên thế giới. Nguyên nhân của các hiện tượng vừa đề cập có thể là vì hướng gió đông bắc - tây nam và hoạt động kiến tạo trongkỉ Đệ tứ.[16] Tại các rạn vòng này, cấu tạo của đảo nổi và hành langsan hô xung quanh đảo có ít sự khác biệt. Hành lang này thường có diện tích gấp từ 4 đến 35 lần so với diện tích đảo.[17]
Các nhà khoa họcViệt Nam đã nghiên cứu một số đảo nhưNam Yết,Song Tử Tây,Trường Sa và phân chia địa hình tại đây thành ba mực địa hình theo độ cao, gồm 0,5-1,5 m; 2,0-3,5 m và 4,5–6 m, trong đó mực địa hình 4,5–6 m chỉ có ở phía tây đảo Song Tử Tây (cao nhất quần đảo). Trên một số đảo có một số túinước ngọt ngầm ở tầng nông, hình thành khi nướcmưa ngấm xuống. Tuy nhiên, trữ lượng và chất lượng loại nước này thay đổi theo không gian - thời gian và bị lẫn tạp chất ở tầng đất mặt cũng như lẫn nước biển;tính kiềm yếu là đặc trưng của nguồn nước này.[18] Ngoài ra, diện tích các đảo cũng thay đổi tùy theo mùa; vàomùa đông diện tích giảm và tăng vàomùa hè.[19] Sự sống còn của đảo lệ thuộc vào sự phát triển củasan hô; nếu san hô chết sẽ khiến đảo dễ bị sóng và gió bão bào trụi.[17]
Khí hậu
Quần đảo Trường Sa nằm trong vùngkhí hậunhiệt đới với hai mùa.Gió mùa đông nam thổi qua Trường Sa từtháng 3 đếntháng 4 trong khi gió mùa tây nam thổi từtháng 5 đếntháng 11. Theo số liệu của McManus, Shao & Lin (2010), nhiệt độ không khí trung bình trong năm của quần đảo vào khoảng 27 °C.[20] Tại Trạm khí tượng trênđảo Trường Sa, nhiệt độ trung bình đo được là 27,7 °C. Về mùa hè (tháng 5 đến tháng 10) nhiệt độ trung bình đạt 28,2 °C; giá trị cực đại đo được là 29,3 °C vào tháng 9. Về mùa đông (tháng 10 đến tháng 4), nhiệt độ trung bình là 28,8 °C, trong đó giá trị cực tiểu đo được là 26,4 °C vào tháng 2. Nhiệt độ trung bình tháng 4 (tháng chuyển tiếp từ mùa đông sang mùa hè) là 28,8 °C, còn nhiệt độ trung bình tháng 10 (tháng chuyển tiếp từ mùa hè sang mùa đông) là 27,8 °C, gần xấp xỉ với nhiệt độ trung bình năm. Nhìn chung biên độ dao động của nhiệt độ không khí vùng đảo Trường Sa không quá 4 °C.[21]
Nhiệt độnước biển bị ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tốthời tiết. Do nằm trong vùng nhiệt đới nên tầm nhiệt độ cao là đặc trưng chonước biển Trường Sa. Vào mùa đông, nhiệt độ trung bình là 26-28 °C và đạt cực tiểu 25-26 °C vào tháng 12 và tháng 1. Vào mùa hè, nhiệt độ trung bình tầng mặt là 29-31 °C và đạt cực đại là 31-32 °C vào tháng 5.[22]
Dữ liệu khí hậu của đảo Trường Sa (nhiệt độ nước biển)
Mùa khô tại quần đảo kéo dài từ tháng 2 đến tháng 4 cònmùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau.[21]Lượng mưa dao động từ 1.800 đến 2.200 mm.[20] Trong giai đoạn 1954-1998, có tổng cộng 498 cơn bão ở biển Đông, trong đó có 89 trận đi qua hoặc phát sinh từ quần đảo Trường Sa. Một đặc điểm quan trọng là bão có xu hướng muộn dần từ bắc xuống nam. Cụ thể, bão chủ yếu xuất hiện ở phía bắc và trung tâm quần đảo trong tháng 10, trong khi bão đi qua phía nam rất ít và nếu có thì chủ yếu là trong tháng 11.[24] Trong cơn bão, tốc độ gió cực đại ghi nhận trong giai đoạn 1977-1985 có thể lên đến 34 m/s so với mức trung bình mọi thời điểm là 5,9 m/s.[25]
Nguồn: Bùi Nhi Thanh & Nguyễn Văn Lương (2007)[24]
Phân cụm
Do sở hữu rất nhiều thực thể địa lý nên quần đảo Trường Sa được các nhà hàng hải quốc tế cũng như một số quốc gia phân chia thành nhiều cụm riêng biệt dựa trên sự gần gũi hoặc tương đồng về mặt địa lý hay đơn thuần chỉ là phân chia tương đối.
Cụm Song Tử là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phần tây bắc của quần đảo Trường Sa. Gọi là Song Tử vì hai đảoSong Tử Đông vàSong Tử Tây như một cặp đảo song sinh, vừa nằm gần nhau vừa có kích thước gần như tương đương. Cặp đảo này hợp cùng các rạn đá san hô nhưđá Nam,đá Bắc ở khu vực lân cận để tạo nên một vòng cung san hô lớn mà tài liệu hàng hải quốc tế gọi là(cụm) rạn Nguy Hiểm phía Bắc (tiếng Anh:North Danger Reef(s);tiếng Trung:双子群礁;Hán-Việt:Song Tử quần tiêu). Tuy nhiên, Việt Nam còn gộp hai rạn vòng ngầm dưới nước ở phía đông củarạn Nguy Hiểm phía Bắc vào cụm Song Tử, cụ thể làbãi Đinh Ba vàbãi Núi Cầu.
Cụm Thị Tứ là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam củacụm Song Tử và phía bắc củacụm Loại Ta. Cụm này chỉ có một đảo san hô làThị Tứ (đứng thứ hai về diện tích trong quần đảo), còn lại đều là các rạn đá nhưđá Hoài Ân,đá Vĩnh Hảo,đá Xu Bi...Đá Xu Bi là trường hợp cá biệt do tách biệt hẳn về phía tây nam so với tất cả các thực thể còn lại. Trừ đá Xu Bi thìđảo Thị Tứ và các rạn đá lân cận cùng nhau tạo thànhcụm rạn Thị Tứ (tiếng Anh:Thitu Reefs;tiếng Trung:中业群礁;Hán-Việt:Trung Nghiệp quần tiêu) theo tài liệu hàng hải quốc tế.
Cụm Loại Ta là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam củacụm Thị Tứ và phía bắc củacụm Nam Yết. Cụm này có hai đảo lớn làLoại Ta vàBến Lạc. Đảo Loại Ta là trung tâm củabãi san hô Loại Ta (tiếng Anh:Loaita Bank;tiếng Trung:道明群礁;Hán-Việt:Đạo Minh quần tiêu) theo cách gọi của tài liệu hàng hải quốc tế; về hai phía đông-tây của đảo là các cồn cát vàrạn san hô nhưbãi An Nhơn,bãi An Nhơn Bắc, bãiLoại Ta,... Về phía đông bắc củabãi san hô Loại Ta là một rạn đá ngầm lớn có tên làbãi Đường; tại đầu mút phía bắc của bãi này là một rạn đá ngầm với tên gọiđá An Lão. Trong khi đó, đảo Bến Lạc (đứng thứ ba về diện tích trong quần đảo) vàđá Cá Nhám lại nằm tách biệt hẳn về phía đông của các thực thể trên.
Cụm Nam Yết là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía namcụm Loại Ta và phía bắc củacụm Sinh Tồn, gồm hàng loạt thực thể nổi bật nhưđảo Ba Bình (lớn nhất quần đảo),đảo Nam Yết,đảo Sơn Ca,đá Én Đất,đá Ga Ven,... Đa số các thực thể địa lý thuộc cụm này hợp thành một bãi san hô dạng vòng có tên gọibãi san hô Tizard (tiếng Anh:Tizard Bank;tiếng Trung:郑和群礁;Hán-Việt:Trịnh Hoà quần tiêu) theo tài liệu hàng hải quốc tế. Ngoài ra, về phía tây của bãi san hô Tizard còn có một số thực thể nằm riêng biệt nhưđá Lớn,đá Chữ Thập,...
Cụm An Bang (hay cụm Thám Hiểm) là một tập hợp các thực thể địa lý ở phía nam của quần đảo Trường Sa. Cụm này không cóđảo san hô nào ngoài mộtcồn cát nổi bật làAn Bang (quen gọi làđảo An Bang). Nhìn chung phần lớn thực thể địa lý của cụm này tạo thành một vòng cung lớn với phần lõm hướng về phía đông nam, trải dài từđá Sác Lốt, quađá Công Đo đếnbãi Trăng Khuyết gần sát vớiPhilippines. Một máng biển ngăn cách vòng cung này với thềm lục địa của đảoBorneo.
Cụm Bình Nguyên
Cụm Bình Nguyên là một tập hợp các thực thể địa lý hợp thành từ phần phía đông của quần đảo Trường Sa, trong khu vực gần với đảoPalawan,Philippines. Tuy cụm này có nhiều thực thể địa lý nhất so với các cụm còn lại nhưng số này lại phân tán rải rác trên một vùng biển rộng lớn.Vĩnh Viễn vàBình Nguyên là hai đảo duy nhất của cụm, trong đó đảo Bình Nguyên đang chịu tác động của hiện tượngxói mòn. Số thực thể còn lại đều là những dạng rạn đá (ví dụ rạn vòng) và các bãi cát ngầm/bãi cạn cùng bãi ngầm.
Trung Quốc phân chia
Ngày25 tháng 4 năm1983,Nhân dân Nhật báo củaTrung Quốc đã công khai danh sách 287 địa danh thuộcbiển Đông, trong đó có tổng cộng 193 địa danh liên quan đếnquần đảo Nam Sa.[10] Về mặt tên gọi, địa danh do Trung Quốc đặt thể hiện một phần tính chất của thực thể nhưđảo,cồn cát (sa châu), rạn đá ngầm (ám tiêu), bãi cát ngầm/bãi cạn (ám sa), bãi ngầm (ám than) và cả cácluồng lạch (môn,thủy đạo) cho tàu thuyền. Nghiên cứu đăng tải trên mạngHải Nam sử chí thể hiện rằng Trung Quốc phân biệt cả các loại hình rạn đá khác nhau như rạn mặt bàn (đài tiêu) hay rạn vòng (hoàn tiêu) để làm cơ sở phân loại chi tiết hơn.
Cách hiểu củaTrung Quốc vềquần đảo Nam Sa khác so với cách hiểu hiện thời của bản đồ hành chínhViệt Nam vềquần đảo Trường Sa ở chỗ nước này còn gộp rất nhiều thực thể địa lý trong khu vực gầnMalaysia vàBrunei (hầu như đều là bãi cát ngầm/bãi cạn và bãi ngầm) vào tổng thểNam Sa. Dưới đây là danh sách nhóm và phân nhóm của khái niệmNam Sa theo mạng Hải Nam sử chí (Trung Quốc):[27]
Đá Chữ Thập của cụm Nam Yết và một vùng nằm giữa các cụm Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa
Vùng vòng cung phía đông
Gồm hầu hết phần phía đông của cụm Trường Sa, hầu hết cụm Thám Hiểm và cả khu vựcrạn san hô Louisa.
Vùng vòng cung phía tây
Phần phía tây của cụm Trường Sa cùng vớibãi Vũng Mây.Việt Nam xem bãi Vũng Mây là một phần của vùng đặc quyền kinh tế - thềm lục địa và không thuộc Trường Sa.
Khu vực trung bộ máng biển
Vài thực thể đơn lẻ thuộc cụm Thám Hiểm và cụm Trường Sa
4
Tây Nam
Khu vực năm bãi ngầm là Tây Vệ, Quảng Nhã, Nhân Tuấn, Lý Chuẩn và Vạn An
Một câyphong ba (Heliotropium foertherianum) già cỗi trên đảo Trường Sa.
Do sở hữu hàng trămrạn san hô rải rác khắp một vùng biển rộng lớn nên quần đảo Trường Sa là nơi cóđa dạng sinh học cao. Ước tính có đến mười nghìn loài sinh vật sinh sống tại vùng biển Trường Sa. Theo Nguyễn & Đặng (2009), có 329 loài san hộ thuộc 69chi và 15họ cùng nhau tạo lập nên các rạn san hô Trường Sa. Tuy nhiên, phân bố loài san hô rất không đồng đều và chỉ tập trung vào một số họ nhưhọ San hô lỗ đỉnh (66 loài),họ San hô não (46 loài),họ San hô khối (17 loài),họ San hô nấm (14 loài),...[28] Cáchệ sinh thái rạn san hô nơi đây không chỉ là nơi cư ngụ lý tưởng cho các sinh vật biển mà còn là nơi nuôi dưỡng nguồn lợi thủy sản dồi dào cho toàn vùngbiển Đông.[29]
Về thực vật, McManus, Shao & Lin (2010) thống kê được 109 loàithực vật có mạch ở khu vực đảo Ba Bình.[30] Nurridan (2004) đã nghiên cứuphá nước (vụng biển) của đá Hoa Lau và xác định được 2 loàicỏ biển và 19 loàitảo biển, trong đó lớptảo lục có 12 loài, lớptảo nâu có 2 loài và lớptảo đỏ có 5 loài.[35] Tại một số đảo doViệt Nam kiểm soát, người ta ghi nhận một số loài thực vật hợp với thổ nhưởng khô cằn và nhiễm mặn nhưbàng vuông,bão táp,muống biển,phi lao,phong ba,...[36] Nhìn chung, thảm thực vật trên các đảo có tuổi rất trẻ vì đảo mới hình thành trong thời kì địa chất gần đây. Các đảo ở phía nam nhưAn Bang,Trường Sa có thảm thực vật kém phát triển hơn các đảo ở phía bắc nhưSơn Ca,Ba Bình,Song Tử Tây.[37]
Nhiều năm qua đã có một số nỗ lực nhằm bảo vệ môi trường sinh thái ở quần đảo. Ngày8 tháng 6 năm1982, Bộ Tài nguyên Philippines lập hai khu bảo tồn rùa biển ởđảo Loại Ta vàđá An Nhơn; từ tháng 8 năm 2008, có thêm khu bảo vệ rùa biển đẻ trứng trênđảo Thị Tứ; trênVĩnh Viễn có khu bảo tồn chim.[39] Ngày3 tháng 3 năm2007, Đài Loan lập khu bảo vệ rùa biển đẻ trứng, lấyđảo Ba Bình là trung tâm rồi mở rộng ra 12 hải lý xung quanh.[40]Việt Nam thì có kế hoạch lập khu bảo tồn biển xung quanhđảo Nam Yết với diện tích 35.000 ha từ năm2010.[41]
Từthế kỷ 16 đến18, ngườichâu Âu từ các quốc gia nhưBồ Đào Nha,Hà Lan,Anh Quốc vàPháp vẫn chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa quần đảo Trường Sa vớiquần đảo Hoàng Sa. Trên bản đồ thường ghiI de Pracell như bản đồ Bartholomen Velho (1560), bản đồ Fernao Vaz Dourado (1590), bản đồ Van Langren (1595)... Cho đến năm1787-1788, đoàn khảo sát Kergariou Locmaria mới xác định rõ vị trí của quần đảoParacel (chính xác làquần đảo Hoàng Sa hiện nay) và từ đó ngườiphương Tây mới bắt đầu phân biệt quần đảo Hoàng Sa ở phía bắc với một quần đảo khác ở phía nam, tức quần đảo Trường Sa.[42]
Đối với người Việt thì thờinhà Lê các hải đảo ngoài khơi phía đông được gọi chung làĐại Trường Sa đảo. Đến thờinhà Nguyễn triều vuaMinh Mạng thì tênVạn Lý Trường Sa (萬里長沙) xuất hiện trong bản đồĐại Nam nhất thống toàn đồ củaPhan Huy Chú. Bản đồ này đặt nhóm Vạn Lý Trường Sa ở phía nam nhóm Hoàng Sa (黄沙). Về mặt địa lý thì cả hai nhóm đều được khoanh lại thành một quần đảo lớn nằm dọc bờ biểnmiền trung nướcĐại Nam.[44]
"Hỗn nhất cương lý lịch đại quốc đô chi đồ" (混一疆理歷代國都之圖).Phần bản đồBiển Đông và các quốc gia ven bờ tây của nó, trích từ Đại Thanh vạn niên nhất thống thiên hạ toàn đồ (大清萬年一統天下全圖). Bản đồ gốc là bản đồ mô tảThế giới qua góc nhìn của người nhà Thanh Trung Quốc vào cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19: Việt Nam (An Nam quốc (安南國,Đàng Ngoài) và Quảng Nam (廣南本安南地,Đàng Trong)),Thái Lan (暹羅國, Xiêm La quốc),Lào (車里 (Xa Lý), 老撾 (Lão Qua)),Chân Lạp (小真嶼, 大真嶼, tiểu và đại Chân Dự) và các đảo nhỏ thuộc Biển Đông: Ngoại La Sơn (外羅山, đảoLý Sơn), Vạn Lý Trường Sa (萬里長沙,quần đảo Hoàng Sa), Vạn Lý Thạch Đường (萬里石塘, quần đảo Trường Sa), tiểu và đại Côn Lôn (崑崙,Côn Đảo).
Tên gọi theo phíaTrung Quốc: "Hỗn nhất cương lý lịch đại quốc đô chi đồ" (混一疆理歷代國都之圖) thờinhà Minh có đánh dấu vị trí của Thạch Đường, và vị trí này hiện được phíaTrung Quốc cho là tương ứng với Nam Sa (Trường Sa) hiện tại.[45] Bản đồ"The Selden Map of China" được lưu trữ tại thư việnĐại học Oxford (Anh), được cho là"Thiên hạ hải đạo toàn đồ" hay"Đông - Tây dương hàng hải đồ" và được làm ra vào khoảng nămThiên Khải thứ 4 (1624), có ghi địa danh Vạn Lý Thạch Đường (萬里石塘), (phía đông của đảo mang tênNgoại La (外羅), tứcđảo Lý Sơn), ở kề cận phía nam-tây nam của Vạn Lý Trường Sa (萬里長沙).[46] Năm1935,Trung Hoa Dân Quốc đã xuất bản "Biểu đối chiếu tên gọi Hoa-Anh các đảo thuộc Nam Hải Trung Quốc", trong đó nước này gọi Trường Sa làĐoàn Sa (團沙) còn địa danhNam Sa thời đó là để chỉ thứ mà ngày nay được gọi làTrung Sa.[47][Ghi chú 3] Ngày1 tháng 12 năm1947, nước này công bố tênTrung Quốc cho hàng loạt thực thể thuộcbiển Đông và đặt chúng dưới sự quản lý của mình.[48] Trong tấm bản đồ mới,Trung Hoa Dân Quốc lần đầu tiên vẽ đường mười một đoạn đứt khúc (tiền thân củađường chín đoạn) thay cho đường vẽ bằng nét liền trước đây, đồng thời họ đổi tên Nam Sa thành Trung Sa và đổi tên Đoàn Sa thành Nam Sa.[49]
Học giả Trung Hoa thế kỷ 19, khi viết và vẽ về địa lý các nước trên toàn thế giới cũng không cho rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc, thậm chí vài người họ còn ngầm thể hiện cho độc giả hiểu là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay là thuộc Việt Nam.Từ Kế Dư (1795-1873), học giả Trung Quốc đầu tiên thời cận đại thực sự "mở mắt nhìn ra thế giới" (khai nhãn khán thế giới) qua bộ sách lịch sư địa lý mang tên "Doanh hoàn chí lược" (瀛寰志略)ː đã vẽ bản đồ Trung Quốc thời nhà Thanh với cực nam là Quỳnh Châu (đảo Hải Nam), đồng thời trong tập Doanh hoàn chí lược/Á Tế Á Nam Dương tân hải các quốc (Châu Áː các nước ven bờ biển Nam Dương), phần viết về Việt Nam đề cập tớiVạn lý Trường Sa và Thiên lý Thạch Đường là những tên gọi người Trung Quốc thời đó gọi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, cũng viết rõ "Quỳnh (châu) là châu lớn địa đầu" Trung Quốc. Trong Doanh hoàn chí lược (1849), Từ Kế Dư viếtː
Trần Tư Trai《Hải quốc văn kiến lục》vân: "An Nam dĩ Giao Chỉ vị Đông Kinh,dĩ Quảng Nam vị Tây kinh. do Hạ Môn phó Quảng Nam,thủ đạo nam Áo,kiến quảng chi Lỗ Vạn sơn,Quỳnh chi đại châu đầu,quá Thất Châu Dương, thủ Quảng Nam ngoại chi Cô Tất La sơn,nhi chí Quảng Nam, kế thủy trình thất thập nhị canh. phó Giao Chỉ tắc do Thất Châu Dương tây nhiễu bắc nhi tiến,kế thủy trình thất thập tứ canh. Thất Châu Dương tại Quỳnh Châu phủ Vạn châu chi đông nam,vãng Nam Dương giả tất kinh chi lộ. Trung Quốc thương bạc hành hải,dĩ vọng kiến sơn hình vị tiêu thức。chí Thất Châu Dương,tắc hạo miểu nhất thủy,vô điểu dữ khả nhận,thiên đông tắc phạm Vạn lý Trường Sa、 Thiên lý Thạch Đường,thiên tây tắc lưu nhập Quảng Nam loan. chu hành chí thử,võng bất dịch dịch。phong cực thuận lợi,diệc tất lục thất nhật phương năng độ quá. Thất Châu Dương hữu thần điểu,tự hải nhạn nhi tiểu,hồng chủy lục cước,vĩ đái nhất tiễn,trường nhị xích hứa,danh viết tiễn điểu。hành chu hoặc mê sở hướng,tắc phi lai đạo chi.").
Dịch nghĩa làː "...Trần Tư Trai 《Hải quốc văn kiến lục》nói: 《An Nam lấyGiao Chỉ làmĐông Kinh, lấyQuảng Nam làmTây kinh. TừHạ Môn đếnQuảng Nam, đi theo đường namÁo, nhìn rộng ra là Lỗ Vạn sơn,Quỳnh là châu lớn địa đầu, vượt quaThất Châu Dương, đi theo phía ngoài Quảng Nam làCô Tất La sơn, đến Quảng Nam, tính toán thủy trình hết khoảng 72 canh (giờ đi thuyền). Đi đến Giao Chỉ từ Thất Châu Dương tiến tới theo hướng tây vòng sang bắc, tính toán thủy trình hết khoảng 74 canh (giờ đi thuyền). Thất Châu Dương nằm ở phía đông nam của Vạn Châu thuộc phủ Quỳnh Châu, để đếnNam Dương ắt phải đi đường dọc xuống xuyên qua nó. Thuyền buônTrung Quốc đi biển, trông vào hình non dạng đá (nổi trên mặt biển) làm tiêu dẫn đường. Tới Thất Châu Dương, lênh đênh trên biển nước bao la, không hề thấy đảo (cồn) chim nào, lệch về phía đông ắt tới Vạn lý Trường Sa vàThiên lý Thạch Đường, lệch về phía tây chắc chảy vàovịnh Quảng Nam. Thuyền đi đến đó (Thất Châu Dương), gặp tại nạn vì không thận trọng cảnh giác. Gió rất thuận lợi, cũng sẽ phải mất 6 đến 7 ngày để có thể vượt qua nó. Thất Châu Dương có chim thần, giống như một con ngỗng (nhạn) biển (lông nhỏ), mỏ đỏ chân xanh, vòng đuôi như mũi tên, dài khoảng hai thước, nên gọi là tiễn điểu. Giúp người đi thuyền hoặc lạc đường trên biển, dò đường theo hướng chim bay.》..."[51]
Tên gọi và vị trí các vùng Biển Đông người Trung Quốc gọi vào thế kỷ 19ː Quảng Nam loan (廣南灣), Thất Châu Dương (七洲洋), Nam Dương (南洋), trong bản đồ Nam Dương tân hải các quốc, của sách Doanh hoàn chí lược.Bức Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ(皇清一統輿地全圖), trong Doanh hoàn chí lược, thể hiện cực nam của Trung Quốc thời nhà Thanh là đảo Hải Nam (tức Quỳnh Châu (瓊州)).
Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa dựa trên các luận cứ vềhành động chiếm hữu thực tế,quản lý liên tục và hòa bình dưới các triều đại phong kiến đối với địa danh Hoàng Sa (nghĩa bao hàm Trường Sa) và sau này là sự nối tiếp củathực dân Pháp cùng các nhà nước hiện đại trên lãnh thổViệt Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn trưng ra các sử liệu vềsự công nhận của các giáo sĩ, nhà hàng hải từ các quốc giachâu Âu, các quốc gia trên thế giới về chủ quyền củaViệt Nam đối với quần đảo này.
Thứ nhất, các sử liệu cổ củaViệt Nam ghi chép rằng các địa danh nhưBãi Cát Vàng,Hoàng Sa,Vạn Lý Hoàng Sa,Đại Trường Sa hoặcVạn Lý Trường Sa thuộc lãnh thổ củaViệt Nam, ít nhất là từthế kỉ 17. Ví dụ:
SáchPhủ biên tạp lục (1776) củaLê Quý Đôn xác địnhBãi Cát Vàng thuộc về địa phận tỉnhQuảng Ngãi.Đội Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải ở phía nam, tức quần đảo Trường Sa ngày nay.[53]Lê Quý Đôn miêu tảBãi Cát Vàng là nơi người ta có thể khai thác các sản phẩm biển và những đồ vật sót lại từ các vụ đắm tàu. Ông viết:
Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương, Quỳnh Châu [đảoHải Nam củaTrung Quốc] gửi choThuận Hóa nói rằng: nămCàn Long thứ mười tám [năm1753] có mười tên quân nhânxã An Vĩnh tổng Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủQuảng Ngãi nướcAn Nam, một ngày tháng bảy đếnVạn Lý Trường Sa [萬里長沙] tìm kiếm các thứ, có tám tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để hai tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, dạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán...[54][55][Ghi chú 4]
— Lê Quý Đôn, "Phủ biên tạp lục", 1776
Năm1771, sau khi kiểm soát từQuảng Ngãi tớiBình Thuận (trên danh nghĩa vẫn thuộc triều Lê),nhà Tây Sơn đã khôi phục đội Hoàng Sa để khai thác tài nguyên và làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội Hoàng Sa được ấn định số lượng 70 suất và chỉ chọn lấy người xã An Vĩnh. VuaQuang Trung còn chiêu nạp một số người Hoa bịnhà Thanh truy đuổi, gọi là"Tàu ô" để họ cai quản, bảo vệ an ninh vùngBiển Đông chonhà Tây Sơn[52]
Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838) thể hiện địa danhVạn Lý Trường Sa và địa danhHoàng Sa là bộ phận của lãnh thổ nướcĐại Nam, dù rằng bản đồ vẫn vẽ cả hai vào chung một quần thể đảo.[44]
Thứ hai,Việt Nam cho rằng sauHòa ước Giáp Thân (1884) donhà Nguyễn ký kết vớiPháp thì nước Pháp đã đại diện cho Việt Nam về mặt ngoại giao[56] và đã thi hành chủ quyền trên cả hai quần đảo là Trường Sa và Hoàng Sa thay cho Việt Nam.
Thứ ba, sau khiquân đội Pháp rút đi, chính phủViệt Nam Cộng hòa ở phía namvĩ tuyến 17 đã kế thừa Pháp để tiếp tục tuyên bố chủ quyền và thực hiện công tác quản lý cả về hành chính lẫn thực tế đối với quần đảo Trường Sa liên tục cho đến khi chấm dứt sự tồn tại vào tháng 4 năm1975. Sau đó, nước Việt Nam thống nhất tiếp tục tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này.
Ngày14 tháng 3 năm1933,Pháp cho đội tàu gồmMalicieuse,tàu pháoArlete và haitàu thủy vănAstrobale vàde Lanessan từSài Gòn đếnđảo Trường Sa và hàng loạt địa điểm khác nhưđá Chữ Thập, cụm rạn Luân Đôn, bãi san hô Tizard, bãi san hôLoại Ta, cụm rạnThị Tứ và rạn Nguy Hiểm phía Bắc.[59] Tại từng địa điểm đi qua, người Pháp đã tổ chức nghi lễ chiếm hữu các đảo chính thuộc nơi đó. Ngày26 tháng 7,Bộ Ngoại giao Pháp ra bản thông tri về hành động trên, kèm theo danh sách liệt kê tên các đảo đã chiếm hữu cùngtọa độ, bao gồm:
Cũng tại Hội nghị San Franciso này, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởngTrần Văn Hữu củaQuốc gia Việt Nam (thuộcLiên hiệp Pháp) đã tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam:
“
Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui, de tout temps, ont fait partie du Viêt-Nam.[Và để tận dụng không ngần ngại mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống bất hòa, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực Việt Nam.]
Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời tuyên bố này.[65]Việt Nam xem việc năm mươi phái đoàn nước khác tham dựHội nghị San Francisco vềhiệp ước hòa bình với Nhật Bản diễn ra ngày7 tháng 7 năm1951 (Trung Hoa Dân Quốc vàCộng hòa Nhân dân Trung Hoa không dự) không bác bỏ hay bảo lưu ý kiến đối với lời phát biểu của Thủ tướngTrần Văn Hữu là một sự công nhận mang tính quốc tế về chủ quyền củaViệt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, do tranh cãi giữa các nước có tuyên bố chủ quyền và xét thấy không nước nào có đủ chứng cứ pháp lý nên Hội nghị San Francisco đãkhông công nhận chủ quyền của bất kỳ nước nào ở Trường Sa, quần đảo được xem làvô chủ.
Ngày13 tháng 7 năm1971, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòaTrần Văn Lắm đã nêu yêu sách củaViệt Nam đối với quần đảo Trường Sa khi ông đang ởManila (Philippines). Ngày6 tháng 9 năm1973, Bộ Nội vụViệt Nam Cộng hòa ban hành nghị định số 420-BNV/HCĐP/26 sáp nhập một số đảo chính và các đảo phụ cận vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.[68]
Tháng 8 năm 1973, Việt Nam Cộng hòa đưa quân đồn trú ra trênđảo Nam Yết, là đảo đầu tiên mà Việt Nam thực sự kiểm soát ở quần đảo Trường Sa. Tổng cộng có 64 Địa phương quân đóng quân trên đảo.[69]
Vào cuối thập niên 1970, trong các ngày30 tháng 12 năm1978 và7 tháng 8 năm1979,Việt Nam phản đối Trung Quốc và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Ngày28 tháng 9 năm1978,Việt Nam phản đối Philippines sáp nhập các đảo thuộc Trường Sa vào lãnh thổ của mình.[75]
Sang thập niên 1980,Việt Nam tiếp tục nhiều lần lên tiếng để phản ứng lại hành động của một số quốc gia khác tại Trường Sa. Ngày5 tháng 2 năm1980, Việt Nam phản bác văn kiện ngày30 tháng 1 năm1980 của Trung Quốc về Nam Sa và Tây Sa. Trong năm1982, Việt Nam sáp nhập huyện Trường Sa vào tỉnhPhú Khánh.[76] Năm1983,Việt Nam phản đối việc Malaysia chiếmđá Hoa Lau.[77]
Trong năm 1987, Hải quân Việt Nam đưa quân ra đồn trú tại hai bãi san hô làBãi Thuyền Chài (5 tháng 3 năm1987)[78] vàĐá Tây (2 tháng 12, 1987),[79] là các đảo chìm đầu tiên mà Việt Nam thực sự kiểm soát.
Năm2007, Chính phủ Việt Nam ký nghị định thành lập ba đơn vị hành chính trực thuộc huyện Trường Sa.[80] Ngày21 tháng 6 năm2012,Quốc hội Việt Namkhóa XIII (kì họp thứ 3) đã bỏ phiếu thông quaLuật Biển Việt Nam gồm 7 chương và 55 điều. Điều 1 của luật tái khẳng định tuyên bố chủ quyền củaViệt Nam đối với quần đảo Trường Sa.[81]
Nhiều học giả quốc tế phản bác các bằng chứng lịch sử màViệt Nam đưa ra. Cụ thể, khi nhận định về các bằng chứng này, Valencia & ctg (1999) cho rằng chúng cũng "giống nhưTrung Quốc - thưa thớt, mang tính giai thoại và không thuyết phục".[82] Lu (1995) cho rằng thư tịch cổViệt Nam "không trưng ra bằng chứng rõ ràng nói lên hiểu biết của Việt Nam về quần đảo Trường Sa xét về tuyên bố chủ quyền riêng rẽ".[83] Cũng theo Lu (1995), trong số vài ghi chép đề cập đến quần đảo Trường Sa thì "hầu hết chúng luôn luôn" xác định Trường Sa là một phần củaquần đảo Hoàng Sa;[83] tấm bản đồ năm1838 (tứcĐại Nam nhất thống toàn đồ củanhà Nguyễn, trong đó thể hiện "Hoàng Sa" và "Vạn Lý Trường Sa" thuộc Việt Nam) vẽ "các đảo nằm rất sát nhau đồng thời cũng gần bờ biển" Việt Nam, "thực tế là cùng một nhóm đảo".[83] Cordner (1994) còn nhận xét tấm bản đồ1838 thể hiện quần đảo Trường Sa nằm trong cương vực Việt Nam này là "không chính xác".[84] Dzurek (1996) dẫn lại nhận xét của Heinzig (1976) rằng, lý luận lịch sử đến hếtthế kỷ 19 của Việt Nam "chỉ đề cập độc nhất đếnquần đảo Hoàng Sa [Paracels]".[85] Cũng theo Dzurek (1996), quần đảo Trường Sa cáchquần đảo Hoàng Sa đến 400 km, vì thế "sẽ là bất bình thường nếu xem cả hai là một thực thể duy nhất hoặc dùng một tên gọi duy nhất cho cả hai".[85]
Học giả quốc tế và học giảViệt Nam cũng có những nhận định khác nhau về giá trị của luận điểm cho rằngPháp chiếm hữu một số đảo lớn và các đảo phụ thuộc thuộc quần đảo Trường Sa và sáp nhập chúng vào tỉnhBà Rịa thuộcNam Kỳ vào năm1933 là thực thi chủ quyền choViệt Nam. Về phía Việt Nam, Nguyễn (2002) dẫn chứng: "Cố vấn pháp luật Bộ Ngoại giao Pháp đã viết rất rõ: "Việc chiếm hữu quần đảo Spratley do Pháp tiến hành năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng Đế "An Nam"."[58] Về phía nước ngoài, Chemillier-Gendreau (2000) đánh giá rằng thái độ của Pháp đối với quần đảo Trường Sa vàquần đảo Hoàng Sa là khác nhau, vì Pháp khẳng định các quyền đối với Trường Sa thông qua tư cách người đầu tiên chiếm đóng các đảo, dựa vào nguyên tắcđất vô chủ (terra nullius) chứ không phải là người kế thừa củaAn Nam.[86] Valero (1993) dẫn chứng, vào giữa tháng 10 năm1950, trong khi Pháp chính thức nhượng lại tuyên bố chủ quyềnquần đảo Hoàng Sa choQuốc gia Việt Nam [do Bảo Đại đứng đầu] thì nước Pháp không ra một văn bản chính thức nào thể hiện quyết định từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.[87]
Năm1956, trong khiViệt Nam Cộng hòa tự phản đối Tomás Cloma (xem thêm) tuyên bố quyền sở hữu đối với phần lớn quần đảo Trường Sa thì André-Jacques Boizet (đại biện Pháp tại Manila) báo choPhilippines biết rằng Pháp có chủ quyền đối với các đảo Trường Sa căn cứ trên hành động chiếm đảo trong thời kỳ 1932-1933. Đại biện bổ sung thêm:"trong khi Pháp nhượng lại [từ bỏ chủ quyền] quần đảo Hoàng Sa cho Việt Nam thì Pháp không nhượng quần đảo Trường Sa".[87][88][89][Ghi chú 8] Theo Kivimaki (2002) thì đến năm1957, nước Pháp"không chính thức từ bỏ tuyên bố chủ quyền nhưng cũng không cố bảo vệ nó nữa"; cách hành xử này được cho là tương tựAnh Quốc thập niên 1930 (xem phần Các tuyên bố khác).[89] Chemillier-Gendreau (2000) nhận định nếu các luận cứ dựa trên lịch sử thời phong kiến của Việt Nam đủ làm sáng tỏ chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa thì sự kiện Pháp chiếm hữu quần đảo mới không làm phức tạp thêm vấn đề.[90]
Một hướng phản bác khác đối với luận điểmViệt Nam thừa hưởng chủ quyền Trường Sa từ tuyên bố chủ quyền củaPháp lần đầu vào năm1933, Joyner (1998) cho rằng Pháp không hề nỗ lực hoàn thiện danh nghĩa giữ chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa bằng việc cho lính chiếm đóng quần đảo cả khi quân độiNhật Bản rời đi (sauChiến tranh thế giới thứ hai) lẫn khi Nhật Bản từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa trong năm1951. Ông kết luận: "hậu quả [của điều đó] là Pháp không có danh nghĩa sở hữu hợp pháp đối với quần đảo Trường Sa để mà Việt Nam thừa hưởng".[91]
Furtado (1999) dẫn ra các lập luận được cho là củaTrung Quốc, có nội dung bác bỏ lập luậnViệt Nam thừa hưởng Trường Sa từPháp. Tác giả viết, Trung Quốc lý luận rằng"không có dấu hiệu cho thấy Việt Nam tiếp nhận danh nghĩa đối với quần đảo Trường Sa khi nước này độc lập", đồng thời vì"Pháp chưa bao giờ tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa" nên Trung Quốc không nhận thấy"bất cứ nguyên do có thể hiểu được nào giải thích cho việc Việt Nam nên được hưởng danh nghĩa [chủ quyền] đối với toàn bộ quần đảo".[92]
Năm1958,Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) tuyên bố chủ quyền của mình đối với các đảo thuộcbiển Đông dựa vào cơ sở lịch sử. Họ cho rằng quần đảo Trường Sa đã từng là một phần củaTrung Quốc trong gần 2.000 năm và đưa ra các đoạn trích trong các thư tịch cổ cũng như các bản đồ từ thờinhà Hán,nhà Đường,nhà Tống,nhà Nguyên,nhà Thanh và gần nhất là thờiTrung Hoa Dân Quốc mà theo Trung Quốc là có nhắc tới quần đảo Trường Sa. Hiện vật khảo cổ như những mảnh đồ gốmTrung Quốc và tiền cổ được tìm thấy ở đó cũng được Trung Quốc sử dụng nhằm chứng minh cho tuyên bố của mình.
Năm 1958,Thủ tướngViệt Nam Dân chủ Cộng hòaPhạm Văn Đồng đã gửiTổng lýQuốc vụ viện Trung Quốc (Thủ tướng) mộtcông hàm để ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày4 tháng 9 năm1958 của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về hải phận của nước này. BáoNhân dân của Việt Nam cũng đăng công hàm này vào ngày22 tháng 9 cùng năm.[93] Theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, sự công nhận này"đương nhiên có giá trị với toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc" vì báo Nhân dân trước đó đã đăng bài chi tiết về bản tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, trong đó nói rằng "kích thước lãnh hải của nướcCộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm tất cả các quần đảo trênbiển Đông".[94][Ghi chú 9]
Ngoài ra, Trung Quốc còn khẳng định rằngViệt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhiều quốc gia khác đã nhiều lần công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa trong quá khứ. TheoTrung Quốc thì:
Ngày16 tháng 5 năm1956, trong buổi tiếp Đại biện lâm thời Đại sứ quán Trung Quốc tạiViệt Nam Lý Chí Dân, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòaUng Văn Khiêm đã nói rằng: "Căn cứ vào những tư liệu củaViệt Nam và xét về mặt lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là thuộc về lãnh thổTrung Quốc". Vụ trưởng Vụ châu Á Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Lộc giới thiệu những tư liệu của phía Việt Nam. Lê Lộc nói: "Xét từ lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đã thuộc về Trung Quốc ngay từ đờiNhà Tống".[95] Cuốn sách "Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" của ông Lưu Văn Lợi do Nhà Xuất bản Công an Nhân dân Hà Nội phát hành năm1995 xác nhận "Việc nói Tây Sa là của Trung Quốc trong bản tuyên bố của chính phủ nướcViệt Nam Dân chủ Cộng hòa trong tuyên bố năm1965 về việc Mỹ quy định khu vực chiến đấu của quân Mỹ hay câu nói của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm về Tây Sa là có thật".[96]
Ngày9 tháng 5 năm1965, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố về việc Chính phủ Mỹ lập "khu tác chiến" của quân Mỹ tạiViệt Nam, trong đó có nói "Việc Tổng thống Mỹ Giôn-xơn xác định toàn cõi Việt Nam và vùng ngoài bờ biểnViệt Nam rộng khoảng 100 hải lý cùng một bộ phận lãnh hải thuộc quần đảo Tây Sa của nướcCộng hòa Nhân dân Trung Hoa là khu tác chiến của lực lượng vũ trang Mỹ", đây là sự đe dọa trực tiếp "đối với an ninh của NướcViệt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước láng giềng".[95] Cuốn sách "Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" của ông Lưu Văn Lợi do Nhà Xuất bản Công an Nhân dân Hà Nội phát hành năm1995 xác nhận "Việc nói Tây Sa là của Trung Quốc trong bản tuyên bố của chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong tuyên bố năm 1965 về việc Mỹ quy định khu vực chiến đấu của quân Mỹ hay câu nói của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm về Tây sa là có thật".[96]
TrongTập bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ Phủ Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa in vào tháng 5 năm1972, tại trang 19, hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa được đề tên là "Tây Sa" và "Nam Sa" chứ không phải là "Hoàng Sa" và "Trường Sa."[97]
Bài "Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" trong sách giáo khoaĐịa lý - Lớp Chín Phổ thông - Toàn tập do Nhà Xuất bản Giáo dục của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xuất bản năm1974 có câu: "Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải nam, Đài loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn... làm thành một bức «trường thành» bảo vệ lục địa Trung Quốc".[98]
Ngày29 tháng 9 năm1932, để đáp lại một văn bản đề cập đếnquần đảo Hoàng Sa do Pháp gửi tới tòa công sứ Trung Quốc,Trung Hoa Dân Quốc gửi một văn bản không rõ ràng choPháp đề cập đến chủ quyền của họ đối với một quần đảo khác ở cáchquần đảo Hoàng Sa 150 dặm dựa trên cơ sở làCông ước Pháp-Thanh 1887.[99] Sau sự kiện Pháp chiếm hữu Trường Sa vào năm1933, các bản đồ của Trung Hoa Dân Quốc đã thay đổi cách vẽ qua việc mở rộng đường giới hạn (vẽ bằng nét liền) tạibiển Đông xuống khu vực giữa vĩ tuyến 7° Bắc và vĩ tuyến 9° Bắc nhằm nói lên rằng quần đảo Trường Sa là thuộc về Trung Quốc.[100]
Tại đại lục Trung Quốc,Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời vào ngày1 tháng 10 năm1949. Chỉ hai năm sau, vào ngày15 tháng 8 năm1951,Chu Ân Lai công khai khẳng định lại chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa và Hoàng Sa sau khi ông đọc được bản sơ thảo hiệp ước hòa bình vớiNhật Bản. Tiếp sau đó, ngày24 tháng 8 năm1951,Tân Hoa xã của Trung Quốc đã lên tiếng tranh cãi về quyền củaPháp cũng như tham vọng củaPhilippines đối với Trường Sa và mạnh mẽ khẳng định quyền của Trung Quốc. Ngày31 tháng 5 năm1956, Trung Quốc phản ứng lại sự kiện Cloma và khẳng định sẽ không tha thứ cho bất cứ sự xâm phạm nào đối với quyền của nước này đối với Trường Sa.[102]
Thập niên 1970, Trung Quốc nhiều lần lên tiếng phản hồi về hành động của các quốc gia khác: ngày16 tháng 7 năm1971, Trung Quốc phản đối việc Philippines có hành vi chiếm đóng một số đảo ở Trường Sa; ngày14 tháng 1 năm1974, Trung Quốc phản đối Việt Nam Cộng hòa sáp nhập các đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy.[103] Ngày19 tháng 1 năm1974, Trung Quốc đánh chiếm các đảo trong nhóm Lưỡi Liềm củaquần đảo Hoàng Sa màViệt Nam Cộng hòa đang quản lí, gây ra trậnHải chiến Hoàng Sa.
Năm1987, Trung Quốc cho tàu khảo sát hàng loạt địa điểm ở quần đảo Trường Sa và đi đến quyết định sẽ chọnđá Chữ Thập làm nơi đóng quân.[104] Trong thời gian trước và sau cuộcxung đột vũ trang với Việt Nam tại Trường Sa vào năm1988 (Hải chiến Trường Sa),hải quân Trung Quốc đã liên tục chiếm thêm nhiều rạn đá khác nhằm mở rộng tầm kiểm soát tại quần đảo.
Một điểm quan trọng trong chuỗi các diễn biến tại Trường Sa là sự phối hợp và tương trợ lẫn nhau củaĐài Loan vàTrung Quốc trong hoạt động tuyên bố chủ quyền và mở rộng tầm kiểm soát tại quần đảo. Tháng 3 năm1988, quân đồn trú củaĐài Loan trênđảo Ba Bình đã tham gia tiếp tế lương thực và nước uống choQuân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (trongHải chiến Trường Sa 1988).[105] Đương thời, Bộ trưởng Quốc phòng Đài Loan làTrịnh Vi Nguyên (鄭為元) từng công khai tuyên bố rằng "Nếu chiến tranh nổ ra, quân đội Quốc gia sẽ giúp quân đội Cộng sản kháng chiến".[106] Đến năm1995, khi Trung Quốc giành quyền kiểm soátđá Vành Khăn vớiPhilippines vào tháng 2 thì Đài Loan cũng giành quyền kiểm soátbãi Bàn Than vào tháng 3. Ngoài ra, lực lượng Trung Quốc đóng tại Trường Sa còn nhận được nước ngọt từ quân đồn trú trên đảo Ba Bình.[107]
Tháng 7 năm2012, báo chí Việt Nam đồng loạt đưa tin về tấm "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" donhà Thanh lập và Nhà Xuất bản Thượng Hải ấn hành năm1904, trong đó điểm cực nam của Trung Quốc dừng lại ở đảoHải Nam và không cóNam Sa (Trường Sa) hayTây Sa (Hoàng Sa) mà Trung Quốc đang tuyên bố chủ quyền. Mai Ngọc Hồng, người tặng bản đồ này choBảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, nói rằng tấm bản đồ này được lập trong vòng 196 năm, từ thời vuaKhang Hi đến năm1904 mới xuất bản; Nguyễn Hữu Tâm từViện Sử học Việt Nam bổ sung thêm là tỉ lệ xích của bản đồ chính xác.[108] Báo chí Việt Nam lập luận rằng đây là bằng chứng cho thấy việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lịch sử tại Trường Sa (và Hoàng Sa) là không có căn cứ.[109]
Về công hàm củaPhạm Văn Đồng, báo chí Việt Nam đã lên tiếng phản bác lại, việc lý lẽ Trung Quốc đã diễn giải công hàm một cách "xuyên tạc" bởi vì nội dung công hàm không đề cập đến Hoàng Sa - Trường Sa và không hề tuyên bố từ bỏ chủ quyền với hai quần đảo này mà chỉ công nhận "hải phận" 12hải lý của Trung Quốc.[110] Nhà nghiên cứu vềchâu Á là Balazs Szalontai thì cho rằng công hàm không có sức nặng ràng buộc pháp lý.[111][112][113]
Thứ nhất, công dân PhilippinesTomás Cloma đã đến nhiều đảo không người thuộc Trường Sa vào năm1947 và tuyên bố sở hữu chúng vào năm1956. Tuy Philippines chưa bao giờ chính thức ủng hộ tuyên bố về quyền sở hữu đảo của Cloma nhưng nước này lại dùng sự kiện Cloma làm căn cứ để tuyên bố chủ quyền. Cụ thể,Philippines cho rằng không có nỗ lực giành chủ quyền nào với các đảo cho tớithập niên 1930 khi quân độiPháp và sau đó là quân đội đế quốcNhật Bản chiếm đảo; khi Nhật Bản ký vào Hiệp ước San Francisco thì đã có một sự từ bỏ quyền đối với các đảo Trường Sa mà không có bất kỳ một bên yêu cầu chủ quyền nào. Vì thế,Philippines cho rằng các đảo Trường Sa đã trở thànhđất vô chủ và có thể được sáp nhập vào lãnh thổ của họ.
Nhóm đảo Kalayaan là khác biệt và không phải là một phần của quần đảo Trường Sa hayquần đảo Hoàng Sa. Có sự công nhận chung về thông lệ hải dương học khi người ta gọi một dãy cácđảo bằng tên của hòn đảo lớn nhất trong nhóm hay thông qua việc sử dụng một cái tên chung.[Ghi chú 10] Ghi chú rằngđảo Trường Sa chỉ có diện tích 13hecta so với diện tích 22 hecta của đảoPagasa [đảoThị Tứ]. Chỉ cần xét riêng về mặt diện tích các đảo thì Nhóm đảo Kalayaan đã không phải là một phần của quần đảo Trường Sa. Xét về mặt khoảng cách, đảo Trường Sa cách đảoPagasa 210 hải lý. Điều này nhấn mạnh lý lẽ rằng chúng không phải là các phần của cùng một dãy đảo.[115]
Đường giới hạn"Nhóm đảo Kalayaan" theo Sắc lệnh Tổng thống số 1596 của Philippines.
Trong buổi họp báo ngày10 tháng 7 năm1971, Tổng thống PhilippinesFerdinand Marcos cáo buộc lính Đài Loan trên đảo Ba Bình đã bắn vào một tàu của Philippines khi tàu này định cập vào đảo Ba Bình, nhưng Đài Loan chối bỏ.[118] Philippines còn gửi văn bản phản đối tớiĐài Bắc với nội dung khẳng định một số ý chính như sau: (1) do hành động chiếm hữu của Cloma nênPhilippines có danh nghĩa pháp lý đối với nhóm đảo; (2) hành động chiếm đóng của người Trung Quốc là phi pháp vì nhóm đảo nàytrên thực tế (de facto) nằm dưới sự ủy trị của cáclực lượng Đồng Minh trongChiến tranh thế giới thứ hai; (3) quần đảo Trường Sa nằm trong lãnh thổ quần đảo mà Philippines tuyên bố chủ quyền.[119] Tháng 4 năm1972, Kalayaan chính thức sáp nhập với tỉnh Palawan và được quản lý như mộtpoblación (tương đương mộtbarangay) với Tomás Cloma là chủ tịch hội đồng khu vực.[120] Năm1978, Ferdinand Marcos ký Sắc lệnh số 1596 định rõ giới hạn của khái niệmNhóm đảo Kalayaan.[114]
Ngày13 tháng 4 năm2009, Tổng thốngGloria Macapagal-Arroyo ký thông qua Luật Đường cơ sở Quần đảo (Đạo luật Cộng hòa số 9522) để tái khẳng địnhNhóm đảo Kalayaan là thuộc lãnh thổ của nước này.[121] Lúc đầu,Philippines từng có ý định đưa Nhóm đảo Kalayaan vàođường cơ sở của mình. Tuy vậy, sau một số tranh luận, nước này từ bỏ ý định trên và quyết định chỉ xem Nhóm đảo Kalayaan là các đảo thuộc Philippines, tuân theo điều 121 về "Chế độ các đảo" của Công ước.[122]
Chỉ trích
Luận điểm thứ nhất vềđất vô chủ, cho rằng chưa có ai tuyên bố chủ quyền hoặc từ bỏ chủ quyền đối với các đảo Trường Sa vàTomás Cloma đã "khám phá" ra chúng vào năm1947 là không thuyết phục bởi lẽ tuyên bố của Cloma đã vấp phải sự phản đối củaViệt Nam Cộng hòa và [các] nhà nướcTrung Quốc.[123] Hơn nữa, Cloma chỉ là một cá nhân và không đại diện cho chính phủ Philippines. Năm1951,Tòa án Công lý Quốc tế khi xét xử vụ tranh chấp giữa Anh vàNa Uy về đặc quyền đánh cá đã tạo ra tiền lệ là "hoạt động độc lập của các cá thể tư nhân có ít giá trị trừ khi có thể chỉ ra rằng họ hành động khi đang theo đuổi... một số... quyền hành nhận được từ chính phủ của họ hoặc theo một cách nào đó mà chính phủ của họ khẳng định quyền tài phán thông qua họ".[124] Khi Cloma thực hiện hành động của mình ở quần đảo Trường Sa thì chính phủPhilippines không hề tỏ ý đồng tình hay không đồng tình với ông.[123]
Luận điểm thứ hai về địa lý củaPhilippines cũng có điểm yếu bởi vì quần đảo Philippines bị máng biển Palawan ngăn cách khỏi quần đảo Trường Sa, không thỏa điều 76 củaCông ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (xem thêm) về sự"kéo dài tự nhiên" nên nước này không thể đòi hỏi đặc quyền vượt quá phạm vi 200hải lý tính từđường cơ sở.[123] Ngoài ra, Dzurek (1996) cho rằng có vẻ Philippines đã không còn duy trì quan điểm cho rằng Nhóm đảo Kalayaan là riêng biệt với quần đảo Trường Sa nữa.[cần dẫn nguồn]
Ngày3 tháng 2 năm1971, đại sứ quán Malaysia tạiSài Gòn gửi công hàm cho Bộ Ngoại giaoViệt Nam Cộng hòa để hỏi rằng nước này có sở hữu hay yêu sách các "đảo" nằm trong khoảng giữa vĩ tuyến 9° Bắc và kinh tuyến 112° Đông "thuộc" lãnh thổ nướcCộng hòa Morac-Songhrati-Meads không. Ngày20 tháng 4, Sài Gòn đáp lại rằng quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa.[126][127]
Năm1979, Malaysia xuất bản một tấm bản đồ mang tựa đề "Bản đồ Thể hiệnLãnh hải và Các ranh giớiThềm lục địa" để xác định thềm lục địa và tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các "đảo" nổi lên từ thềm lục địa đó.[cần dẫn nguồn] Tháng 4 năm1980, Malaysia tuyên bố yêu sách vềvùng đặc quyền kinh tế nhưng chưa phân định ranh giới cụ thể. Tháng 5 năm1983 (hay tháng 6[128]), Malaysia đánh dấu việc chiếm đóng thực thể địa lýđầu tiên thuộc Trường Sa khi cho quân đội đổ bộ lênđá Hoa Lau.[129] Tháng 11 năm1986,[130] nước này cho 20 lính chiếm đá Kiêu Ngựa (rạn đá nổi bật củabãi Kiêu Ngựa) và cho mộttrung đội chiếmđá Kỳ Vân (theo nguồn khác thì Malaysia chiếm đá Kỳ Vân vào năm1987[131]).[132] Năm1987 (hay1986[131]), Malaysia chiếmđá Suối Cát.[132]
Nhận định về luận điểm "thềm lục địa" của Malaysia, một số học giả cho rằng nước này đã "lầm lạc" (Dzurek 1996)[129] trong cách suy diễn hay "khó có thể thanh minh" (Valencia & ctg 1999)[136] nếu đối chiếu vớiCông ước Liên Hợp Quốc về Luật biển. Cụ thể, Điều 76 của Công ước quy địnhthềm lục địa chỉ bao gồm "đáy biển và lòng đất dưới đáy biển" chứ không phải các phần đất hay đá nổi phía trên thềm lục địa đó:
Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoàilãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài củarìa lục địa, hoặc đến cáchđường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn.
Một điểm nữa là tương tự như trường hợpPhilippines, luận điểm về thềm lục địa củaMalaysia cũng có thêm điểm yếu là máng biển Borneo-Palawan đã phá vỡ sự "kéo dài tự nhiên" của thềm lục địa của nước này. Nói cách khác, đa số các thực thể địa lý mà Malaysia đòi hỏi vẫn không thuộcthềm lục địa của nước này dù họ có diễn giải luận điểm về thềm lục địa như thế nào đi nữa.
Luận điểm thứ hai của Malaysia về "khai phá sớm nhất" cũng không thuyết phục vì nếu so với các nước khác thìMalaysia tham gia vào tranh chấp muộn hơn; khi tuyên bố chủ quyền đối với một phần của Trường Sa thì quốc gia này cũng vấp phải sự phản ứng từ các nước đó.[136]
Không rõBrunei có tuyên bố chủ quyền đối với rạn vòng Louisa hay chỉ đòi quyền tài phán với vùng biển xung quanh đó vì các nghiên cứu của quốc tế có cách viết khác nhau về vấn đề này; trong khi có nguồn cho rằng Brunei không đòi rạn vòng Louisa[7][139] thì nguồn khác chỉ ra Brunei đã phản đối Malaysia khiMalaysia tuyên bố chủ quyền đối với rạn vòng này.[140] Mặt khác, bãi ngầm (nhưbãi Vũng Mây) dù có được xem là thuộc quần đảo Trường Sa hay không thì theo Công ước, bãi này không phải đối tượng để các quốc gia có thể tuyên bốchủ quyền mà các nước đó chỉ cóquyền chủ quyền (tức chỉ là một số bộ phận cấu thành chủ quyền) đối với bãi ngầm trên cơ sở chứng minh được bãi ngầm đó nằm trongvùng đặc quyền kinh tế hoặcthềm lục địa của mình một cách khoa học. Do vậy, nếu Brunei không đòi rạn vòng Louisa thì thực ra Brunei không tranh chấp một đảo hay đá nào "thuộc" quần đảo Trường Sa[139] mà đơn thuần chỉ là một nước trên thềm lục địa và thềm lục địa bên dưới vùng biển Trường Sa. Khi đó,Brunei và các quốc gia khác sẽ tự đàm phán với nhau hoặc thông qua cơ quan tài phán quốc tế.
Điểm yếu củaBrunei khi tuyên bố về thềm lục địa cũng tương tự vớiPhilippines ở chỗ, máng biển Đông Palawan làm gián đoạn sự "kéo dài tự nhiên" của thềm lục địa cách bờ biển Brunei 60-100 dặm.[142][Ghi chú 13][Ghi chú 14]
Năm1933, trước hành động chiếm hữu các đảo Trường Sa củaPháp, Anh đã nhắc cho Pháp biết rằng đảo Trường Sa và đảo An Bang vẫn là lãnh thổ của Anh trừ khi Hoàng gia Anh dứt khoát từ bỏ những phần đất này.[144] Tuy vậy vào ngày12 tháng 7 năm1933,Văn phòng Đối ngoại và Khối Thịnh vượng chung Anh nêu ý kiến rằng Anh chỉ có vị thế pháp lý yếu ớt nếu đưa vụ này raTòa án Thường trực Công lý Quốc tế do nước Anh không tiến hành chiếm giữ hiệu quả đối với hai thực thể trên.[145] Rốt cuộc, dù trên thực tế Anh không hề từ bỏ tuyên bố chủ quyền nhưng nước này đã chọn cách im lặng thay vì tuyên bố phản đối Pháp.[146]
Trong một văn bản đề ngày14 tháng 10 năm1947 của Văn phòng Đối ngoại và Khối Thịnh vượng chung Anh (sau này trở thành tài liệu chính thức cho phái đoàn Anh đến dựHội nghị San Francisco năm1951), Anh tiếp tục duy trì tuyên bố chủ quyền nhưng chỉ thị phái đoàn Anh không phản đối lời tuyên bố chủ quyền của Pháp và "để cho Pháp giữ thế chủ động".[147]
Năm1950, dưới sự thúc đẩy củaÚc, chính phủ Anh tiến hành nghiên cứu tầm quan trọng chiến lược của quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa nhằm quyết định xem có nên tiến hành biện pháp gì để ngăn các quần đảo này rơi vào tay "mộtnhà nước cộng sản nào đó" hay không. Sau đó, Anh kết luận rằng vì các đảo này hầu như không có giá trị kinh tế hay chiến lược gì nênKhối Thịnh vượng chung có thể an tâm giữ nguyên thế bị động như hiện thời.[148]
Nhật Bản và Hà Lan
Năm1917 (hay1918), một nhóm thám hiểmngười Nhật đến quần đảo Trường Sa và gặp một số ngư dânTrung Quốc đang sống ở đảoSong Tử Tây.[149] Trong các thập niên 1920 và 1930 kế tiếp,Nhật Bản tự tiến hành hoạt động khai thác phân chim tại một số đảo, ví dụAn Bang,Loại Ta,Song Tử Tây.[59][150] Khi Pháp chính thức chiếm Trường Sa vào năm1933, Nhật Bản lên tiếng phản đối Pháp với lý lẽ là Nhật đã tổ chức khai thác phân chim trên một số đảo ở đây.[59] Cuốithập niên 1930,đế quốc Nhật Bản chiếm giữđảo Ba Bình để làm căn cứ tàu ngầm nhằm mục đích ngăn chặn tàu thuyền qua lại khu vực Trường Sa.[150] Ngày31 tháng 3 năm1939, Bộ Ngoại giao Nhật Bản gửi thông báo cho Đại sứ Pháp, tuyên bố rằng Nhật Bản là nước đầu tiên thám hiểm Trường Sa vào năm1917 và họ đang kiểm soát quần đảo.[151] Thời đó, Nhật gọi các đảo này là Shinnan shotō (新南諸島 (Tân Nam chư đảo),nghĩa là "các đảo mới phía nam"?) và đặt chúng dưới sự cai trị của chính quyềnthuộc địa tạiđảo Đài Loan. Tuy nhiên, lời tuyên bố củaNhật Bản chỉ là trên giấy vì đến năm1941 thì Nhật mới dùng vũ lực chiếm đóng quần đảo Trường Sa.[59] Sau khiChiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản kýHiệp ước San Francisco và đã từ bỏ mọi quyền đối với quần đảo Trường Sa:
Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và đối vớiquần đảo Hoàng Sa.
— Khoản f, điều 2, chương II của Hiệp ước San Francisco.[152]
Một sự kiện đơn lẻ khác diễn ra vào năm1956 sau khiTomás Cloma tuyên bố quyền sở hữu đối với phần lớn quần đảo Trường Sa.Hà Lan (khi này còn nắm quyền kiểm soátTây Irian, tức làTây New Guinea) đã gửi một thông báo cho Bộ Ngoại giao Philippines với nội dung rằng nước này sẽ sớm đòi hỏi quyền sở hữu các đảo này với sự ủng hộ của Anh.[153]
Một số tranh chấp và xung đột
Tranh chấp trong vùng quần đảo Trường Sa và các vùng gần đó không chỉ là tranh chấp chủ quyền đối với các đảo/đá mà còn là tranh chấp tài nguyên thiên nhiên như dầu khí và hải sản. Đã có nhiều cuộc xung đột xảy ra giữa các nước về những tàu đánh cá nước ngoài trongvùng đặc quyền kinh tế của nước khác và báo chí cũng thường đưa tin về những vụ bắt giữ ngư dân. Nhiều nước tuyên bố chủ quyền cũng chưa cấp phép khai thác tài nguyên tại vùng biển thuộc quần đảo vì lo ngại hậu quả là một cuộc xung đột ngay lập tức. Các công ty nước ngoài cũng không đưa ra bất kỳ một cam kết nào về việc khai thác vùng này cho đến khi tranh chấp về lãnh thổ được giải quyết hay các nước tham gia đạt được thoả thuận chung.
Năm1970Philippines đã tổ chức chiếm giữđảo Song Tử Đông,đảo Thị Tứ,đảo Loại Ta và 4 đảo nữa. Theo như Đại tá về hưu hải quân PhilippinesDomingo Tucay Jr kể lại thì các đảo, bãi khi đó hoàn toàn hoang vắng,Philippines chiếm đóng dễ dàng. Chỉ khi tớiđảo Song Tử Tây, họ mới thấy quânViệt Nam Cộng hòa đóng ở đây. QuânPhilippines báo về sở chỉ huy, được chỉ thị cứ để mặc quân Việt Nam Cộng hòa. Lính Việt Nam Cộng hòa ở đảo Song Tử Tây cũng để yên để cho quân Philippines hành động. Sau chiến dịch,Philippines chiếm được 6 đảo nổi và bãi đá mà không cần phải nổ súng, trong đóThị Tứ là đảo lớn thứ nhì,Bến Lạc (Đảo Dừa) là đảo lớn thứ ba,Song Tử Đông là đảo lớn thứ năm ở quần đảo Trường Sa. Philippines giữ các đảo và bãi này từ đó đến nay.
Sau vụ chiếm đóng, chính phủViệt Nam Cộng hòa cũng không hề lên tiếng phản đối hoặc có động thái quân sự gì để đáp trả vụ chiếm đóng đó. Theo như lời Tucay kể lại, nhiều tháng sau khiPhilippines chiếm đóng 7 đảo ở quần đảo Trường Sa, các nước khác mới biết vụ việc này.[154][155]
Việt Nam Cộng hòa và Đài Loan
Năm1956, Đài Loan điều tàu đếnđảo Ba Bình khi đó thuộc quyền quản lý củaViệt Nam Cộng hòa. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã không có hành động gì để phản đối. Nhân dịp lễ Song Thập 10/10 củaTrung Hoa Dân Quốc (tứcĐài Loan), Tổng thốngNgô Đình Diệm đã ra lệnh cho quân rút khỏiđảo Ba Bình là đảo lớn nhất tại quần đảo, Đài Loan giành quyền kiểm soát đảo mà không cần phải nổ súng.[cần dẫn nguồn]
Thời điểm quân độiĐài Loan thực sự tái chiếm đảo Ba Bình chưa rõ ràng, bởi có rất nhiều thông tin khác nhau về thời điểm Đài Loan điều tàu đến đảo Ba Bình vào năm1956 (ngày20 tháng 5, tháng 7, tháng 9 hoặc tháng 10[156]) và có nguồn tài liệu cho rằng từ năm1971 thì Đài Loan mới thực sự đồn trú lâu dài trên đảo.[157][Ghi chú 15]
Tháng 5 năm1992,Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) và Crestone Energy (một công ty Mỹ có trụ sở ởDenver, tiểu bangColorado) đã ký một hợp đồng hợp tác để cùng thăm dò một khu vực rộng 7.347 hải lý vuông (gần 25.200 km²) mà họ gọi làVạn An Bắc-21 (nằm giữabãi ngầm Tư Chính vàbãi ngầm Phúc Tần; cách bờ biểnViệt Nam 160 hải lí[159]), nơiTrung Quốc xem là một phần của quần đảoNam Sa trong khiViệt Nam xem là một phần củavùng đặc quyền kinh tế -thềm lục địa và không liên quan đến quần đảoTrường Sa. Tháng 9 năm1992, Việt Nam cáo buộc Trung Quốc đã bắt giữ hai mươi tàu chở hàng từ Việt Nam đếnHồng Kông từ tháng 6 năm1992 nhưng không thả hết số tàu này.[160] Tháng 4 và tháng 5 năm1994,Việt Nam phản đối công ty Crestone thăm dò địa chất ởbãi Tư Chính, tái khẳng định bãi này hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế - thềm lục địa của Việt Nam và không có tranh chấp gì ở đây.[161]
Ngày10 tháng 4 năm2007, trước câu hỏi của phóng viên về phản ứng củaTrung Quốc trước việc chính phủ Việt Nam phân lô dầu khí, gọi thầu, hợp tác với hãngBP của Anh để xây dựng đường ống dẫn khí thiên nhiên (ở khu vực mà Trung Quốc quan niệm thuộc Nam Sa[162] và Việt Nam quan niệm thuộc vùng đặc quyền kinh tế - thềm lục địa[163]) đồng thời tổ chức bầu cử Quốc hội Việt Nam [khóa XII] tại quần đảo Trường Sa,người phát ngônBộ Ngoại giao Trung QuốcTần Cương trả lời rằng "Việt Nam đưa ra hàng loạt hành động mới xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán củaTrung Quốc ở Nam Sa, đi ngược lại với đồng thuận mà lãnh đạo hai bên Trung-Việt đã đạt được về vấn đề trên biển", và "Trung Quốc đã biểu thị mối lo ngại sâu sắc và giao thiệp nghiêm khắc vớiViệt Nam"[162] ngay trong thời gian Chủ tịch Quốc hội Việt NamNguyễn Phú Trọng đang thăm chính thức nước này.[164] Ngày9 tháng 7 năm2007, tàu hải quânTrung Quốc đã nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dânViệt Nam trong vùng biển gần Trường Sa, làm chìm một thuyền đánh cá của Việt Nam, khiến ít nhất một ngư dân thiệt mạng và một số người khác bị thương.[165] Sau đó, Thứ trưởng Ngoại giao Việt NamVũ Dũng đã đếnBắc Kinh từ ngày 21 đến 23 tháng 7 để bàn về các vấn đề biên giới, đặc biệt là trên biển.[166]
Ngày20 tháng 4 năm2012, Cục Cảnh sát biểnĐài Loan cho biết ngày22 tháng 3 năm2012, tàu tuần tra củaViệt Nam đã xâm nhập vào vùng biển hạn chế quanhđảo Ba Bình, và đã rời đi sau khi tàu cao tốc M8 của Cục Cảnh sát biển Đài Loan tới chặn. Đến ngày 26 cùng tháng, tiếp tục có hai tàu tuần tra củaViệt Nam xâm nhập vào vùng biển gần đảo Ba Bình, các tàu này đã rời đi sau khi phát hiện mình bị Cảnh sát biển Đài Loan theo dõi bằng radar. Cục Cảnh sát biển Đài Loan cho biết không bên nào nổ súng trong cả hai sự cố.[168] Trước đó, một số phương tiện truyền thông đưa tin phíaViệt Nam đã dùngsúng máy bắn khiêu khích trước và bị phíaĐài Loan bắn trả.[169][170] Ngày21 tháng 5 năm2012, Ủy viên Lập pháp thuộc Quốc dân ĐảngLâm Úc Phương cho biết tàuViệt Nam thường xâm nhập vào vùng biển hạn chế 6.000 m ở quanhđảo Ba Bình, năm2011 có 106 chiếc tàu xâm nhập, từ tháng 1 đến tháng 4 năm2012 có 41 tàu xâm nhập. Cục trưởng Cục An ninh Quốc giaĐài Loan Lâm Úc Phương phát biểu rằng Việt Nam đã mong muốn kiểm soátbãi Bàn Than (hiện doĐài Loan kiểm soát) từ lâu và cho rằng việc bãi này rơi vào tay Việt Nam sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian nếu như chính phủ Đài Loan không có hành động tích cực như xây dựng cơ sở cố định trên bãi.[171]
Ngày 6/11/2014, đại diện Bộ Ngoại giaoViệt Nam đã gặp đại diện Đại sứ quánTrung Quốc tạiHà Nội trao công hàm phản đối Trung Quốc tiến hành các hoạt động cải tạo phi pháp trênđá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.[172]
Ngày 9/4/2015, bàHoa Xuân Oánh, người phát ngôn Bộ Ngoại giaoTrung Quốc, cho biết hoạt động cải tạo đất và xây dựng tại quần đảo Trường Sa của Trung Quốc là để"xây dựng nơi trú ẩn, hỗ trợ điều hướng, tìm kiếm và cứu hộ, dịch vụ dự báo khí tượng hàng hải, dịch vụ nghề cá cùng thủ tục hành chính cần thiết choTrung Quốc, các nước láng giềng cũng như chính các tàu đang hoạt động trênBiển Đông". Việc này"là cần thiết do rủi ro từ những cơn bão gây ra với nhiều tuyến hàng hải xa đất liền" và còn"đáp ứng nhu cầu phòng thủ quân sự" của Trung Quốc.[173]
Ngày 16/4/2015, trả lời câu hỏi phản ứng củaViệt Nam với phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung QuốcHoa Xuân Oánh ngày 9/4/2015 về việc mở rộng các bãi đá ngầm ở Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại giaoLê Hải Bình cho biếtViệt Nam đã nhiều lần giao thiệp với phíaTrung Quốc, kể cả ở cấp cao về vấn đề này. Theo ông,"Một lần nữa, chúng tôi tuyên bốViệt Nam có đầy đủcăn cứ pháp lý vàbằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hành động xây dựng, mở rộng của nước ngoài ở các đảo, đá thuộc khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không được sự cho phép củaChính phủ Việt Nam là hoàn toàn phi pháp và vô giá trị. Việt Nam kiên quyết phản đối các hành động nêu trên và yêu cầu các bên liên quan nghiêm túc thực hiệnTuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đóng góp thiết thực vào việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông".[174]
Ngày 28/4/2015, Chủ tịchHội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 26 ra tuyên bố chia sẻ lo ngại sâu sắc của các lãnh đạo ASEAN về việc tôn tạo, bồi đắp đang diễn ra ởBiển Đông, làm xói mòn lòng tin, sự tin cậy và phương hại đến hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông; khẳng định lại tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, nhấn mạnh các bên cần bảo đảm việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả toàn vẹnTuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC): nhằm xây dựng, duy trì và tăng cường lòng tin và sự tin cậy lẫn nhau; thực hiện kiềm chế trong các hành động; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực; các bên liên quan giải quyết những khác biệt và tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế trong đó cóCông ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982.[175] Thượng nghị sĩ MỹJohn McCain, Chủ tịch Ủy ban Quân lực Thượng viện Mỹ, lo ngạiTrung Quốc sẽ quân sự hóa các đảo nhân tạo xây dựng phi pháp và tuyên bố một vùng nhận diện phòng không (ADIZ) ởBiển Đông để khẳng định yêu sách chủ quyền.[176]
Thông cáo chung củaHội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM) 48 ra ngày 06/08/2015 đã tuyên bố"Chúng tôi ghi nhận lo ngại sâu sắc của một số Bộ trưởng đối với việc tôn tạo, bồi đắp ởBiển Đông, làm xói mòn lòng tin và sự tin cậy, gia tăng căng thẳng và có thể gây phương hại tới hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông". Thông cáo khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, tự do hàng hải và hàng không ởBiển Đông, nhấn mạnh sự cần thiết đối với tất cả các bên trong việc bảo đảm thực hiện đầy đủ và hiệu quả toàn bộ các điều khoản củaTuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC): xây dựng, duy trì và tăng cường lòng tin và sự tin cậy lẫn nhau; thực hiện kiềm chế đối với các hành động làm phức tạp và gia tăng các tranh chấp; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực; các bên liên quan giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với các nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi của luật pháp quốc tế, trong đó cóCông ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS)1982. Thông cáo chung cũng nêu rõ các bên trông đợi việc thực hiện hiệu quả các biện pháp đã được nhất trí nhằm tăng cường lòng tin và sự tin cậy lẫn nhau cũng như tạo một môi trường thuận lợi cho việc duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực.[177]
Tháng 2 năm1995, xung đột diễn ra giữaTrung Quốc vàPhilippines khi Philippines tìm thấy một số kết cấu trênđá Vành Khăn, khiến chính phủ nước này phải đưa ra một kháng cáo chính thức đối với hành động chiếm đóng của Trung Quốc. Ngày25 tháng 3 năm1995, Hải quân Philippines bắt giữ bốn tàu Trung Quốc gầnđá Suối Ngọc.[178] Cũng trong ngày 25 tháng 3,Việt Nam nói rằng línhĐài Loan trênđảo Ba Bình bắn vào tàu chở hàng của Việt Nam đang trên đường từđá Lớn đếnđảo Sơn Ca.[179] Thời gian sau đó, nhiều cuộc gặp gỡ đã diễn ra giữa các bên tham gia tranh chấp và cảIndonesia nhưng thu được rất ít kết quả.[180] Đến năm1998, Trung Quốc tuyên bố rằng "các chòi ngư dân" ởđá Vành Khăn bị hư hại do bão và điều 7 tàu đến vùng này để sửa chữa. Lần nàyPhilippines tiếp tục có các hành động đáp trả như cho hải quân bắn chìm một số tàu cá của Trung Quốc mà nước này cho rằng đã xâm phạmvùng đặc quyền kinh tế của họ.[181]
Tháng 6 năm1999,Philippines phản đốiMalaysia chiếmbãi Thám Hiểm vàđá Én Ca, hai thực thể mà Philippines gọi làPawikan vàGabriela Silang. Đến tháng 10, nước này còn cho máy bay do thámbãi Thám Hiểm khiến Malaysia cũng chỉ thị máy bay bay theo. Tuy nhiên, không có đụng độ quân sự diễn ra.[183]
Trong chuyến thăm Mỹ ngày 25/9/2015, Chủ tịch Trung QuốcTập Cận Bình tuyên bố vớiTổng thống Mỹ Obama"Những hoạt động xây dựng màTrung Quốc đang triển khai ở Nam Sa không nhằm vào hay làm ảnh hưởng bất kỳ quốc gia nào và Trung Quốc không có ý định theo đuổi hoạt động quân sự hóa".[187]
Ngày11 tháng 4 năm2007, Chính phủ Việt Nam thành lập thị trấn Trường Sa và hai xã Song Tử Tây và Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa. Các thị trấn và xã này được thành lập trên cơ sở các hòn đảo cùng tên và các đảo, đá, bãi phụ cận.[190]
Từ năm1959,Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) đặt quần đảo Nam Sa (bao hàm quần đảo Trường Sa) cùng với quần đảo Tây Sa (tứcquần đảo Hoàng Sa) và quần đảo Trung Sa (gồmbãi Macclesfield và một số thực thể địa lý thuộcbiển Đông) thành một cấp gọi là Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa (tiếng Trung:西南中沙群岛办事处;Hán-Việt:Tây Nam Trung Sa quần đảo biện sự xứ) dưới quyền quản lý của khu hành chính Hải Nam thuộc tỉnhQuảng Đông. Tháng 3 năm1969, Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa đổi tên thành Ủy ban Cách mạng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa tỉnh Quảng Đông (tiếng Trung:广东省西、南、中沙群岛革命委员会;Hán-Việt:Quảng Đông tỉnh Tây, Nam, Trung Sa quần đảo Cách mạng Ủy viên hội), đến tháng 10 năm1981 lại đổi về tên Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa tỉnh Quảng Đông (tương đương cấp huyện).[191] Đến năm1988, khi Hải Nam tách khỏi Quảng Đông để trở thành một tỉnh riêng biệt, Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa trực thuộc tỉnhHải Nam.
Tháng 11 năm2007, có tinTrung Quốc đã thành lậpđô thị cấp huyện Tam Sa để quản lý ba quần đảo trênbiển Đông.[192] Theo Trung Quốc, thực tế vì gặp phản ứng ởViệt Nam nên việc thành lập này bị dừng lại, tuy nhiên đô thị cấp huyện Tam Sa vẫn tồn tại trên danh nghĩa.[191] Ngày21 tháng 6 năm2012,Quốc vụ viện Trung Quốc chính thức phê chuẩn thành lậpthành phố cấp địa khuTam Sa để thay thế Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa.[193] Cơ quan chính quyền thành phố Tam Sa đóng trênđảo Phú Lâm, Hoàng Sa. Ngày 18 tháng 4 năm 2020, Trung Quốc tuyên bố thành phố Tam Sa thành lập hai quận:quận Tây Sa vàquận Nam Sa, trong đó quận Nam Sa quản lý quần đảo Trường Sa, chính phủ nhân dân quận Nam Sa đóng trên đá chữ Thập.[194]
Đài Loan
Ngày16 tháng 2 năm1990,Hành chính viện Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) chấp thuận cho thành phốCao Hùng thành lập một Ủy ban quản lý để tiếp quảnđảo Ba Bình của quần đảo Trường Sa, quy thuộckhu Kỳ Tân của thành phố. Ngày28 tháng 1 năm2000, Cục Tuần phòng Bờ biển (tức Tuần duyên) được thành lập và là cơ quan tiếp quảnđảo Ba Bình, thực thi pháp luật chống buôn lậu, nhập cư trái phép và kiểm tra thương thuyền (ngư thuyền).[40]
Ngoài các nhân viên quân sự đồn trú, trên cácđảo thuộc quần đảo Trường Sa còn có các cư dân. Theo kết quả của cuộc Tổng Điều tra Dân số và Nhà ởViệt Nam năm2009, huyện Trường Sa có 195 cư dân (128 nam và 67 nữ), trong đó 82 cư dân sống ở thành thị (thị trấn Trường Sa).[2]
Theo điều tra dân số và nhà ở củaPhilippines vào năm2010, đô thị tự trịKalayaan có 222 cư dân, tất cả đều sinh sống trênđảo Thị Tứ (Pag-asa).[3]
Quần đảo Trường Sa vốn không cóđất trồng trọt và không có dân bản địa sinh sống. Nghiên cứu của một số học giả như Dzurek (1985), Bennett (1992), Cordner (1994) và Tư vấn Pháp lý cho Bộ Ngoại giaoPhilippines đều chỉ ra rằng các đảo thuộc Trường Sa thiếu khả năng duy trì đời sống kinh tế riêng đầy đủ bởi vì chúng quá nhỏ, khô cằn và có rất ít tài nguyên trên đảo.[196]
Tuy trên các đảo chỉ có một vài tài nguyên (chẳng hạnphân chim) nhưng nguồn lợi thiên nhiên của vùng biển quần đảo Trường Sa thì lại rất có giá trị, ví dụ hải sản và tiềm năngdầu mỏ -khí đốt. Vào năm1980, dân chúng trong vùng đánh bắt được 2,5 triệu tấn hải sản từ khu vực quần đảo Trường Sa.[197] Từ tháng 5 năm2005,Việt Nam đã cho xây dựng trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá tạibãi đá Tây; diện tích đến2013 đã đạt 3.000 mét vuông, sở hữu trang bị hiện đại, hỗ trợ nhiều mặt cho ngư dân.[198] Về tiềm năng dầu khí vàkhoáng sản khác, hiệnđịa chất vùng biển quần đảo vẫn chưa được khảo sát nhiều nên chưa có các số liệu đánh giá đáng tin cậy. Tuy nhiên, Bộ Địa chất và Tài nguyên Khoáng sảnTrung Quốc ước tính vùng quần đảo Trường Sa cótrữ lượng dầu và khí thiên nhiên rất lớn, lên đến 17,7 tỉ tấn so với con số 13 tỉ tấn củaKuwait, và họ xếp nó vào danh sách một trong bốn vùng có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới.[199] Tháng 6 năm1976,Philippines khoan được dầu mỏ tại khu phức hợp Nido ở ngoài khơi đảoPalawan.[129]
Vùng biển Trường Sa cũng là một trong những vùng có mật độ hàng hải đông đúc nhất trên thế giới. Trongthập niên 1980, mỗi ngày có ít nhất 270 lượt tàu đi qua quần đảo Trường Sa, và "hiện tại" hơn một nửa số tàu chở dầu siêu trọng của thế giới chạy qua vùng biển này hàng năm.[200] Quần đảo Trường Sa hiện chưa cócảng lớn mà chỉ có một số cảng cá vàđường băng nhỏ trên các đảo có vị trí chiến lược nằm gần tuyến đường vận chuyển tàu biển chính. Tuy nhiên, tàu thuyền lưu thông qua vùng này có thể gặp nhiều khó khăn do phải đối mặt với nguy hiểm từ gióbão, sóng lớn và nguy cơ bị mắc cạn hay va phải cácrạn đá ngầm.
Nằm tại khu vực khí hậu nhiệt đới và có hệ sinh thái đa dạng, quần đảo Trường Sa có tiềm năng để thu hút khách du lịch. Tháng 6 năm2011,Tổng cục Du lịch của Việt Nam mở hội thảo và công bố đề án phát triển du lịch hướng về biển đảo, trong đó đề cập đến dự định mở tuyến du lịch ra Trường Sa.[201] Tháng 4 năm2012, Philippines tuyên bố kế hoạch phát triểnđảo Thị Tứ bằng cách sửa chữa lại đường băng trên đảo và biến nơi đây thành một khu du lịch.[202] Tháng 9 năm2012, Tân Hoa xã củaTrung Quốc đưa tin về kế hoạch phát triển du lịch du thuyền giai đoạn 2012-2022 của thành phốTam Á (tỉnhHải Nam) đến quần đảo Trường Sa.[203] Tuy vậy, các nước trên đều đi sauMalaysia bởi vào đầuthập niên 1990, nước này không những đã hoàn thành việc xâyđảo nhân tạo tạiđá Hoa Lau (gần cực nam của quần đảo Trường Sa) mà còn mở cửa mộtkhu nghỉ mát đầy đủ tiện nghi dành cho du khách, đặc biệt là những người yêu thích lặn biển.[cần dẫn nguồn]
Cơ sở hạ tầng
Trung Quốc xây đảo nhân tạo
Theo báo cáo Chiến lược An ninh Hàng hải châu Á-Thái Bình Dương củaLầu Năm Góc, đầu tháng 12/2013,Trung Quốc bắt đầu xây đảo nhân tạo trên các đá và bãi đá ngầm do họ kiểm soát tại Trường Sa. Từ tháng 12/2013 cho tới tháng 6/2015, Trung Quốc đã mở rộng 1.170 hađảo nhân tạo. Tại các nơi Trung Quốc xây cất đảo, nước này đào các kênh sâu cùng các điểm đậu để tàu cỡ lớn có thể cập bến. So với các nước xung quanh cũng cải tạo đảo, chỉ trong 20 thángTrung Quốc cơi nới gấp 17 lần diện tích các nước khác gộp lại trong 40 năm và chiếm tới 95% tổng diện tích đảo nhân tạo trong Biển Đông. Cơ sở hạ tầng mà Trung Quốc đang xây dựng có thể giúp tăng sự hiện diện quyền lực của nước này ởBiển Đông.[204] Các đảo nhân tạo sẽ giúp Trung Quốc tăng khả năng chiến đấu ở quần đảo Trường Sa. Nước này cũng có thể sử dụng chúng để săn tàu ngầm trong và ngoài vùng biển này nhằm bảo vệ các tàu ngầm của họ.[205]
Ngày 16/9/2015, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ash Carter nóiHoa Kỳ sẽ hoạt động trên bất cứ khu vực nào mà luật pháp quốc tế cho phép. Việc biến một bãi đá ngầm thành sân bay không đồng nghĩa với quyền chủ quyền hoặc quyền hạn chế các phương tiện hàng không và hàng hải.[205]
Tại quần đảo Trường Sa có bốnđường băng được xây dựng từ trước[7] và 3 đường băng do Trung Quốc mới xây dựng trên 3 hòn đảo nhân tạo.
Đảo Thị Tứ: năm1975,Philippines xây dựng một đường băng trên đảo Thị Tứ. Đường băng dài 1.260 m nhưng có vài chỗ đã bị xói mòn, xuống cấp nên chỉ có khả năng tiếp nhận máy bayC-130 Hercules vào những lúc điều kiện thời tiết tốt; vào các ngày mưa, đường băng này chỉ đón được các máy bay cỡ nhỏ hơn.Philippines đã có kế hoạch sửa chữa lại đường băng này.[202][206]
Đảo Ba Bình: năm2006, chính quyềnTrung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) giao cho Bộ Quốc phòng nhiệm vụ xây dựng đường băng trên đảo Ba Bình. Tháng 1 năm2008, xuất hiện nguồn tin thông báo rằng Đài Loan đã hoàn tất công việc xây dựng.[207] Đường băng có bề mặt lát xi măng vớichiều dài khoảng 1.200 m (lúc đầu ước tính là 1.150 m),chiều rộng 30 m cùng với lề vật liệu và khu vực cấm xây dựng rộng 21 m ở hai bên đường băng, đáp ứng nhu cầu đón máy bayC-130 Hercules.[208]
Đá Hoa Lau: trong quá khứ đá Hoa Lau thực chất chỉ có một phần nổi rất nhỏ. Sau khi chiếm đá này vào đầuthập niên 1980, quân đội Malaysia đã kiến tạo một hònđảo nhân tạo và cho xây dựng một đường băng dài 1.067 m trên đó.[209]
Đảo Trường Sa: trên đảo có một đường băng doViệt Nam xây dựng. Theo một nguồn tin, đường băng này đã được làm mới với tiêu chuẩn sân bay cấp ba, cho phép các loại máy bay cánh bằng chở khách hạ/cất cánh.
Đá Chữ Thập: Từ năm2014, Trung Quốc bắt đầu cải tạo mở rộng đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) thànhđảo nhân tạolớn nhất quần đảo Trường Sa có diện tích 2,74 km² (tính đến tháng 7/2015) với tổng kinh phí hơn 73 tỉ nhân dân tệ (11,5 tỉ USD).[210][211] Trung Quốc xây dựng trên đá Chữ Thập 9 cầu tàu, 2 bãi đáp trực thăng, 10 ăng ten liên lạc qua vệ tinh và một trạm radar,[211] một đường băng dài 3.000m đủ lớn cho máy bay ném bom chiến lược tại Trường Sa cho phép quân đội Trung Quốc bao quát không phận rộng lớn từ TâyThái Bình Dương gồm cả Guam (nơi có các căn cứ Mỹ) đếnẤn Độ Dương. Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ (PACOM), Đô đốc Harry Harris, cho biết hiện các vỉa đá ngầm màTrung Quốc chiếm giữ và xây dựng trái phép ởBiển Đông nhìn giống hệt các căn cứ cho máy bay chiến đấu, máy bay ném bom, tàu và hoạt động do thám.[176]
Đá Xu Bi: năm2015 Trung Quốc bắt đầu xây một đường băng dài 3300m trên đá Xu Bi.[212]
Năm2005, công tySmart Communications của Philippines đã cử người rađảo Thị Tứ để xây một tháp thu phát sóng di động GSM thông qua thiết bị đầu cuối có độ mở rất nhỏ (VSAT).[215] Từ năm2007,Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) của Việt Nam đã cho khảo sát và lắp đặt các trạm thu phát sóng thông tin di động tại một số nơi thuộc Trường Sa. Sau khi được lắp đặt, phạm vi phủ sóng của các trạm là cách các đảo/đá 20 km và còn cho phép binh sĩ đồn trú truy cập Internet không dây công nghệ EDGE 2,75G.[216] Từ tháng 5 năm2010, Công ty Tập đoàn Thông tin Di động Trung Quốc (China Mobile) và hải quân Trung Quốc đã bắt đầu phủ sóng thông tin di động trên các rạn đá ngầm do nước này kiểm soát, bao phủ tổng diện tích là 280 km². Tại điểm đóng quân chính làđá Chữ Thập còn có một trạm dự phòng.[217] Đầu tháng 2 năm2013,Thông tấn xã Trung ương của Đài Loan thông báo công ty Trung Hoa Điện Tín (Chunghwa Telecom) đã hoàn tất lắp đặt hệ thống viễn thông tạiđảo Ba Bình. Hoạt động thông qua vệ tinh ST-2, hệ thống này không những đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc cho nhân viên của Cục Tuần phòng Bờ biểnĐài Loan trên đảo mà còn phủ sóng vùng biển lân cận, hỗ trợ tích cực cho các tàu tuần tra và tàu đánh cá.[218]
^Trong giới hạn quần đảoDe Paracelles, có hai nhóm đảo, nhóm đảo phía nam tách rời (không được ghi chú) có hình dạng và vị trí tương đối giống với nhóm đảo Vạn Lý Trường Sa (萬里長沙) củaĐại Nam nhất thống toàn đồ.
^Phó Tổng thống PhilippinesCarlos Polistico García cũng có đề cập đến phát ngôn trên trong một cuộc họp báo sau đó khi ông cho rằng lời khẳng định của phía Pháp có vẻ được hỗ trợ bởi bằng chứng là một bia đánh dấu trênđảo Ba Bình ghi"Đảo Pháp, 25 tháng 4 năm 1933" và một tàn tích của một tòa nhà cỡ vừa được cho lànhà máyphân bón của Pháp (Hartendorp 1958, tr. 217)
^Theo nguồn tiếng Trung do Trung Quốc đăng tải thì bản tuyên bố ngày4 tháng 9 năm1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có nhắc đến Trường Sa ở đoạn 1:"Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Điều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc". (xem đầy đủtại đâyLưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014 tạiWayback Machine). Theo nguồn tiếng Anh đăng tải trên website của Đại học Tiểu bang Florida, Hoa Kỳ thì bản tuyên bố ngày4 tháng 9 năm1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa có nhắc đến Trường Sa ở đoạn 4:"Tương tự, các nguyên tắc được nêu ra trong đoạn 2 và 3 áp dụng cho Đài Loan và các đảo lân cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa và tất cả các đảo thuộc Trung Quốc". (xem đầy đủtại đâyLưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2010 tạiWayback Machine).
^Ý nói rằng quần đảoTrường Sa được gọi thông qua tên của đảo "lớn nhất" là đảoTrường Sa.
^Át-lát Địa lý (dùng trong nhà trường) của Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam thể hiệncụm bãi cạn Luconia thuộc vềMalaysia (thực chấtTrung Quốc vàĐài Loan cũng đòi hỏi). Chưa thể kết luậnViệt Nam có xem rạn vòng Louisa là một phần của quần đảo Trường Sa hay không.
^Năm1971, tàu củaPhilippines cố gắng cập vàođảo Ba Bình và bị Đài Loan đáp trả. Tổng thống Philippines khi đó làFerdinand Marcos đã lên tiếng phản đối, và Philippines cũng gửi văn bản tớiĐài Bắc để phản ứng lại hành động của Đài Loan ((Dzurek 1996, tr. 19)).
^ab"Phần I: Biểu tổng hợp".Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2012.
^ab"南沙群島-歷史背景 [Bối cảnh lịch sử quần đảo Nam Sa]" (bằng tiếng Trung). Website Tuần duyên Đài Loan.Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2014.Lưu trữ bởi WebCite® vào ngày 12 tháng 6 năm 2014 tại.
^"二、中国对南沙群岛拥有主权的历史依据". 中华人民共和国外交部.Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.Lưu trữ bởi WebCite® vào ngày 13 tháng 11 năm 2012 tại.
^"《三沙设市记》碑文解读:字字珠玑蕴含三沙千年" (bằng tiếng Trung). Tân Hoa xã. ngày 27 tháng 7 năm 2012.Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2012.
^"三位北师大学子:渊源"南海断续线"" (bằng tiếng Trung). Sina.com. ngày 3 tháng 9 năm 2012.Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2012.
^Thủy trình 6 đến 7 ngày đi thuyền tương đương với khoảng 72-84 canh giờ đi thuyền (12 canh = 01 ngày). Thất Châu Dương là vùng Biển Đông nằm giữa đảo Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa ngày nay, ở phía đông nam đảo Hải Nam. Nam Dương là tên người Trung Quốc thế kỷ 19 gọi phần lớn Biển Đông, trừ Thất Châu Dương và vịnh Giao Chỉ (tức vịnh Quảng Nam hay vịnh Tonkin).
^Lê Quý Đôn,Phủ biên tạp lục. Trích từLes archipels de Hoang Sa et de Truong Sa selon les anciens ouvrages viêtnamiens d'histoire et de geographie của Võ Long Tê, Sài Gòn, 1974, tr. 62.
^"Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Bà Rịa (1933)". Trang thông tin điện tử về Biên giới lãnh thổ. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2012.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)Lưu trữ bởi WebCite® vào ngày 13 tháng 11 năm 2012 tại .
^"太平島背後的關鍵問題" (bằng tiếng Trung). 世界新聞報. ngày 19 tháng 1 năm 2006.Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2012.Lưu trữ bởi WebCite® tại.
^"Sponsorship speech on The 2009 Baseline Bill" (bằng tiếng Anh). Thượng viện Philippines. ngày 27 tháng 1 năm 2009.Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2012.Lưu trữ bởi WebCite® vào ngày 13 tháng 11 năm 2012 tại.
^"Abdullah Harap Pulau Layang-layang Dipelihara" (bằng tiếng Mã Lai). BERNAMA [Hãng thông tấn Quốc gia Malaysia]. ngày 5 tháng 3 năm 2009.Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2012.{{Chú thích báo}}:Đã định rõ hơn một tham số trong|ngày lưu trữ= và|archive-date= (trợ giúp);Đã định rõ hơn một tham số trong|url lưu trữ= và|archive-url= (trợ giúp)
^"Treaty of Peace with Japan" (bằng tiếng Anh). Shuyo-Joyakushu, tr.5-32. Japan's Foreign Relations-Basic Documents, tập 1, tr.419-439. ngày 8 tháng 9 năm 1951.Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2012.
^Milton, Roger (ngày 19 tháng 7 năm 2007)."Vietnam, China clash again over Spratlys" (bằng tiếng Anh). Straits Times.Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2012.Lưu trữ bởi WebCite® tại.
^Yeh, Joseph."Vietnam vessels entered Taiwan waters: CGA" (bằng tiếng Anh). The China Post.Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2012.Lưu trữ bởi WebCite® vào ngày 13 tháng 11 năm 2012 tại.
^"Calming the sea of troubles". The Economist. ngày 4 tháng 11 năm 1999.Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012.Lưu trữ bởi WebCite® tại.
^"Nghị định số 65/2007/NĐ-CP". Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp.Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2012.Lưu trữ bởi WebCite® vào ngày 13 tháng 11 năm 2012 tại.
^ab"三沙市 [Thành phố Tam Sa]" (bằng tiếng Trung). Mạng Thông tin Hải dương Trung Quốc.Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2014.{{Chú thích web}}:Đã bỏ qua tham số không rõ|= (trợ giúp)
^Esplanada, Jerry E. (ngày 28 tháng 6 năm 2012)."Philippines ignores China: Pag-asa new school is in our land" (bằng tiếng Anh). Philippine Daily Inquirer.Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2012.Lưu trữ bởi WebCite® vào ngày 13 tháng 11 năm 2012 tại.
^Jennings, Ralph; Macfie, Nick; Richardson, Alex (ngày 28 tháng 1 năm 2008)."Taiwan completes airstrip on disputed island" (bằng tiếng Anh). Reuters.Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2012.{{Chú thích báo}}:Đã bỏ qua tham số không rõ|= (trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)Lưu trữ bởi WebCite® tại.
^"電子文件 - 監察院"(PDF) (bằng tiếng Trung). 中華民國監察院 [Giám sát viện Trung Hoa Dân Quốc].Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2012.{{Chú thích web}}:Đã bỏ qua tham số không rõ|= (trợ giúp)Lưu trữ bởi WebCite® tại.
^"Diving in Malaysia" (bằng tiếng Anh). Malaysia Footsteps (Website of Tourism). ngày 13 tháng 7 năm 2010.Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2012.Lưu trữ bởi WebCite® tại.
^Văn Phong (ngày 25 tháng 4 năm 2011)."Sóng di động nối gần Trường Sa với đất mẹ". Báo điện tử Quân đội Nhân dân.Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2012.Lưu trữ bởi WebCite® tại.
^郭景水; 欧燕燕 (ngày 7 tháng 8 năm 2012)."中国移动网络覆盖南沙群岛 提供通信保障" (bằng tiếng Trung). 人民网 [mạng Nhân dân Nhật báo].Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2012.{{Chú thích báo}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)Lưu trữ bởi WebCite® tại.
^江明晏 (ngày 1 tháng 2 năm 2013)."太平島行動通信啟用" (bằng tiếng Trung). 中央通訊社.Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2012.{{Chú thích báo}}:Đã bỏ qua tham số không rõ|= (trợ giúp)
Tham khảo
Asri, Salleh; Che Hamdan, Che Mohd Razali; Kamaruzaman, Jusoff (2009), "Malaysia's Policy towards Its 1963-2008 Territorial Disputes [Chính sách của Malaysia đối với các tranh chấp lãnh thổ giai đoạn 1963-2008]",Journal of Law and Conflict Resolution, 15{{Chú thích}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
Brown, Michael E.; Lynn-Jones, Sean M.; Miller, Steven E. (1996),East Asian Security [An ninh Đông Á], The MIT Press,ISBN978-0262522205{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Carpenter, William M.; Wiencek, David G. (2000),Asian Security Handbook 2000 [Sách tóm tắt về an ninh châu Á] (ấn bản thứ 2), M.E. Sharpe,ISBN978-0765607140{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Catley, Robert; Keliat, Makmur (1997),Spratlys: the Dispute in the South China Sea [Quần đảo Trường Sa: tranh chấp trong biển Đông], Dartmouth Publishing,ISBN978-1855219953{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Chemillier-Gendreau, Monique (2000) [Bản gốc tiếng Pháp 1996],Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands [Chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa], Springer,ISBN978-9041113818{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Cordner, Lee G. (1994), "The Spratly Islands Dispute and the Law of the Sea [Tranh chấp quần đảo Trường Sa và Luật biển]",Ocean Development & International Law,25 (1):61–74{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Cục Chính trị (2011),Những điều cần biết về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và khu vực thềm lục địa phía nam (DK1), Cục Chính trị, Bộ Tư lệnh Hải quân (Việt Nam){{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Dai, Chang-Feng; Fan, Tung-Yung (1996), "Coral Fauna of Taiping Island (Itu Aba Island) in the Spratlys of the South China Sea [Quần động vật rạn san hô của đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa trong biển Đông]",Atoll Research Bullentin, 436, Washington D.C.: National Museum of Natural History{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Dupont, Alan (2001),East Asia Imperilled: Transnational Challenges to Security [Đông Á hiểm nghèo: những thách thức xuyên quốc gia đối với an ninh], Cambridge University Press,ISBN978-0521010153{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Dzurek, Daniel J. (1996),The Spratly Islands Dispute: Who's on First? [Tranh chấp quần đảo Trường Sa: Ai trước tiên?], Maritime Briefings, quyển 2, University of Durham, International Boundaries Research Unit,ISBN978-1897643235{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Đinh, Kim Phúc (chủ biên) (2010),Chủ quyền quốc gia Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, Nhà xuất bản Tri thức{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Fravel, M. Taylor (2008),Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China's Territorial Disputes [Biên giới vững, quốc gia an toàn: hợp tác và xung đột trong các tranh chấp biên giới của Trung Quốc], Princeton University Press,ISBN978-0691136097{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Furtado, Xavier (tháng 12 năm 1999), "International Law and the Dispute over the Spratly Islands: Whither UNCLOS?",Contemporary Southeast Asia, 3,21, Institute of Southeast Asian Studies (ISEAS):386–404{{Chú thích}}: Quản lý CS1: năm (liên kết) Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Hartendorp, Abram van Heyningen (1958),History of Industry and Trade of the Philippines: The Magsaysay Administration (Volume 1) [Lịch sử công nghiệp và thương mại của Philippines: chính quyền Magsaysay (tập 1)], American Chamber of Commerce of the Philippines{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Hill, R.D.; Owen, Norman G.; Roberts, E.V. (1991),Fishing in Troubled Waters: Proceedings of an Academic Conference on Territorial Claims in the South China Sea [Đánh cá tại vùng nước tranh chấp: Các tham luận tại hội thảo học thuật về những tuyên bố chủ quyền lãnh thổ tại biển Đông], Centre of Asian Studies occasional papers and monographs, 0378-2689; no. 97, University of Hong Kong, Centre of Asian Studies,ISBN978-0824818814{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Imperial Institute (1893),The Year-book of the Imperial Institute of the United Kingdom, the Colonies and India: a Statistical Record of the Resources and Trade of the Colonial and Indian Possessions of the British Empire (Volume 2), The Institute{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Kivimäki, Timo (2002),War Or Peace in the South China Sea? [Chiến tranh hay hòa bình tại biển Đông?], Nordic Institute of Asian Studies (NIAS),ISBN87-91114-01-2{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Lê, Quý Đôn (1997),Lê Quý Đôn toàn tập, quyển 1, Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Lu, Ning (1995),Flashpoint Spratlys! [Trường Sa, điểm bùng cháy!], Dolphin Trade Press,ISBN978-9810066178{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Lưu, Văn Lợi (1995),Cuộc tranh chấp Việt Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Hà Nội: Nhà xuất bản Công an Nhân dân{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
McManus, J.W.; Meñez, L.A.B. (1997), "The Proposed International Spratly Island Marine Park: Ecological Considerations [Đề xuất về công viên hải dương quốc tế tại quần đảo Trường Sa: các cân nhắc về sinh thái]",Proceedings of the 8th International Coral Reef Symposium,2, Panama: Smithsonian Tropical Research Institute{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
McManus, John W.; Shao, Kwang-Tsao; Lin, Szu-Yin (2010),Toward Establishing a Spratly Islands International Marine Peace Park: Ecological Importance and Supportive Collaborative Activities with an Emphasis on the Role of Taiwan [Hướng đến việc thành lập một công viên hải dương hoà bình tại quần đảo Trường Sa: sự quan trọng về sinh thái và các hoạt động cộng tác mang tính khuyến khích, nhấn mạnh đến vai trò của Đài Loan], Taylor & Francis Group{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Ministry of Defence (Philippines) (1982),The Kalayaan Islands [Quần đảo Kalayaan], Development Academy of the Philippines Press{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Nguyễn, Huy Yết; Đặng, Ngọc Thanh (2008),Nguồn lợi sinh vật và các hệ sinh thái ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Nguyễn, Hữu Phụng (1994) [1998], Morton, Brian (biên tập), "The Species Composition of Coral Reef Fishes in the Spratly Islands, Central South China Sea",The marine biology of the South China Sea III: proceedings of the Third International Conference on the Marine Biology of the South China Sea: Hong Kong, 28 October-ngày 1 tháng 11 năm 1996, Hong Kong University Press,ISBN978-9622094611{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Nguyễn, Nhã (2002),Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (luận án tiến sĩ), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh){{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Nguyễn, Thế Tiệp; Nguyễn, Biểu; Lê, Đình Nam; Trần, Xuân Lợi (2008),Địa chất và địa vật lý vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Pak, Hee Kwon (2000),The Law of the Sea and Northeast Asia: A Challenge for Cooperation [Luật biển và Đông Bắc Á: thách thức hợp tác], Springer,ISBN978-9041114075{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Phạm, Hoàng Quân (2011), "Tìm hiểu vài công trình nghiên cứu địa danh các đảo Nam Hải của các học giả Trung Quốc",Hội thảo biển Đông lần hai, Học viện Ngoại giao, Hà Nội{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Roy, Denny (1998),China's Foreign Relations [Các quan hệ ngoại giao của Trung Quốc], Rowman & Littlefield Publishers,ISBN978-0847690138{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Samuels, Marwyn S. (1982),Contest for the South China Sea [Tranh giành biển Đông], New York: Methuen,ISBN0-416-33140-8{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Severino, Rodolfo C (2010),Where in the World is the Philippines? Debating Its National Territory [Philippines ở đâu trong thế giới? Bàn luận về lãnh thổ quốc gia Philippines], Institiute of South East Asian Studies,ISBN978-981-4311-71-7{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Thayer, Carlyle A.; Amer, Ramses (2000),Vietnamese Foreign Policy in Transition [Đường lối ngoại giao của Việt Nam trong thời chuyển đổi], Palgrave Macmillan,ISBN978-0312228842{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Trần, Đăng Đại (ông và bà) (1975), "Các văn kiện chính thức xác nhận chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thời Pháp thuộc tới nay",Tập san Sử Địa, 29, Sài Gòn: Nhà in Văn Hữu{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Valero, Gerardo M. C (1993),Spratly Archipelago: Is the Question of Sovereignty Still Relevant?: a Roundtable Discussion [Quần đảo Trường Sa: liệu câu hỏi về chủ quyền có còn thích đáng?: một thảo luận bàn tròn], Institute of International Legal Studies, University of the Philippines Law Center,ISBN978-9711503307{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Valencia, Mark J.; Van Dyke, Jon M.; Ludwig, Noel A. (1999),Sharing the Resources of the South China Sea [Chia sẻ các tài nguyên trong biển Đông], University of Hawaii Press,ISBN978-0824818814{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Zou, Keyuan (2005),Law of the Sea in East Asia: Issues and Prospects [Luật biển tại Đông Á: các vấn đề và triển vọng], Routledge,ISBN978-0415350747{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)