Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Pop-punk

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từPop punk)
Pop-punk
Tên khác
  • Pop punk
  • punk pop
Nguồn gốc từ loại nhạc
Nguồn gốc văn hóaCuối thập niên 1970, Hoa Kỳ và Liên hiệp Anh
Hình thức phái sinh
Tiểu thể loại
Neon pop punk
Thể loại pha trộn
Chủ đề liên quan

Pop-punk (haypunk-pop, hoặc viết tắt không có dấu gạch nối) là một thể loại nhạcrockkết hợp các yếu tố củapunk rock vớipower pop hoặcpop. Định nghĩa của thể loại là tiết tấu nhanh, nhịp điệu sôi động và chú trọng vào cấu trúc bài hát pop truyền thống cũng như các đề tài vềthanh thiếu niên và phảnngoại ô. Dòng nhạc khác với các tiểu thể loại punk khác ở chỗ lấy cảm hứng lớn từ các ban nhạc ở thập niên 1960 nhưthe Beatles,the Kinksthe Beach Boys. Thể loại nhạc đã phát triển trong suốt lịch sử của nó, bổ sung các yếu tố củanew wave,college rock,ska,hip hop,emo,nhóm nhạc nam pop và thậm chí cảhardcore punk. Đôi khi có thể xem dòng nhạc này tương tự như power pop vàskate punk.

Pop-punk xuất hiện vào cuối thập niên 1970 với các nhóm nhạc nhưRamones,the UndertonesBuzzcocks đặt nền tảng. Những ban nhạc punk ở thập niên 1980 nhưBad Religion,Descendentsthe Misfits (tuy họ không nhất thiết phải chơi nhạc pop-punk) đã tác động pop-punk. Dòng nhạc mở rộng thị trường vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 nhờ hàng loạt ban nhạc ký hợp đồng vớiLookout! Records, gồmScreeching Weasel,the Queersthe Mr. T Experience. Giữa thập niên 1990, thể loại trở nên cực kỳ thịnh hành và thâm nhập vào thị trường đại chúng với các ban nhạc nhưGreen Daythe Offspring. Thể loại trải qua thêm một lần thịnh hành nữa vào cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000 với lá cờ đầu làBlink-182, kế đến là các nghệ sĩ đương thời tiếp nối trào lưu nhưSum 41,New Found Glory,Good CharlotteAvril Lavigne. Ngoài raWarped Tour đóng vai trò quan trọng trong việc chắp cánh cho các nghệ sĩ pop-punk triển vọng.

Sự thịnh hành của pop-punk trên thị trường đại chúng kéo dài đến giữa và cuối thập niên 2000, khi những nghệ sĩ nhưFall Out Boy,My Chemical RomanceParamore gặt hái thành công thương mại lớn. Đến thời điểm này, đa số nghệ sĩ pop-punk đều khó phân biệt với những nghệ sĩ bị gắn mác "emo", tới mức các nghệ sĩ emo crossover như Fall Out Boy và Paramore phổ cập một phong cách chịu ảnh hưởng của pop-punk, gọi làemo pop. Đến thập niên 2010, nhạc pop-punk trên thị trường đại chúng trở nên thất thế, khi mà các ban nhạc rock và nhạc xoay quanh guitar trở nên khan hiếm so với nhạc pop xoay quanh dance trên đài phát thanh. Tuy nhiên trong thời gian này, một nhóm nghệ sĩ underground đã mang tới màu sắc thô ráp và giàu cảm xúc hơn tới định nghĩa của thể loại này, gồmthe Story so Far,the Wonder YearsNeck Deep. Đầu thập niên 2020, một làn sóng pop-punk mới bắt đầu lấy lại chỗ đứng của dòng nhạc trên thị trường đại chúng với nhiều nghệ sĩ mới nhưMachine Gun Kelly,KennyHooplaYungblud.

Định nghĩa và đặc điểm

[sửa |sửa mã nguồn]
Pop-punk khác với những tiểu thể loại punk khác ở chỗ lấy cảm hứng lớn từ các ban nhạc ở thập niên 1960 nhưthe Beatles (ảnh).

Pop-punk được nhiều nguồn miêu tả là một nhánh củapunk,[1] biến thể của punk,[2][3][4] hình thái nhạcnhạc pop,[5] và thể loại tương phản với punk như kiểu củapost-punk.[4] Dòng nhạc đã phát triển về mặt phong cách suốt lịch sử của nó, kết hợp thêm các yếu tố từnew wave,college rock,ska,rap,emonhóm nhạc nam.[3] Một vài biến thể của pop-punk được ghi nhận là trung thành với punk rock truyền thống, thể hiện chất âm thanh "thô ráp, gai góc, hát cao vút như tiếng hét và không hề thân thiện với đài phát thanh". Những biến thể khác lại được trau chuốt hơn và phù hợp với đài phát thanh đại chúng.[6]

Các cây viết củaThe A.V. Club miêu tả pop-punk là một nhánh của punk "cơ bản đã tồn tại lâu đời như chính punk" với nguồn gốc trong "nhạc pop cổ điển củathe Beatles,the Kinksthe Beach Boys. Loại nhạc này thường kết hợp những giai điệu ngọt ngào với những đoạn riff ồn ào, ngang ngược."[1] Theo Ryan Cooper củaAbout.com, "pop-punk là phong cách vay mượn nhiều từ The Beatles và nhạc pop ở thập niên 60 hơn các tiểu thể loại khác của punk".

Có một sự chồng chéo đáng kể giữapower pop và pop-punk, nên hai phong cách này thường bị gộp làm một.[1] Ấn phẩm mạngRevolver thừa nhận rằng khi mà pop-punk và power pop thường có thể xem là một, thì "khái niệm cốt lõi rất đơn giản—những bài hát giàu giai điệu được gói lại bằng thái độ của punk."[7] Trong cuốnThe Encyclopedia of Punk Music and Culture (2006) của Brian Cogan, pop-punk được mô tả là "phiên bản bắt tai và tốc độ hơn của power pop."[8]AllMusic định nghĩa "punk-pop" là "một nhánhpost-grunge củaalternative rock" kết hợp cấu trúc và tiết tấu nhanh của punk rock với "giai điệu và đổi hợp âm" của power pop.[9] Ở thập niên 1990, có một sự chồng chéo giữa pop-punk vàskate punk.[10] Nhà báo âm nhạcBen Myers ghi rằng hai thuật ngữ này là đồng nghĩa.[11]

Cây viết nhạc rockGreg Shaw (tác giả nhiều bài về power pop và được ghi nhận là người hệ thống thể loại vào thập niên 1970) ban đầu định nghĩa chính power pop là phong cách lai của punk và pop.[12] Giọng caBillie Joe Armstrong củaGreen Day (từng miêu tả power pop là "thứ nhạc tuyệt vời nhất Trái Đất mà chẳng ai thích)[13] nhận định rằng thuật ngữ pop-punk lànghịch hợp (oxymoron): "Bạn chỉ có thể là punk hoặc không mà thôi."[3] Trong cuốnShake Some Action: The Ultimate Guide to Power Pop (2007), nam diễn viênRobbie Rist thấy rằng đa phần thể loại chỉ gồm các ban nhạc pop "đặt thêm biệt hiệu 'punk' để cho bọn trẻ nghĩ rằng chúng đang chọc cáu cha mẹ."[5]

Ngay cả trong giai đoạn hình thành vào năm 1978, pop-punk không chỉ đơn giản là phiên bản punk dễ nghe và nhẹ nhàng hơn. Loại nhạc này nổi loạn không kém, có điều lại nổi loạn trước chính punk:tính hư vô, tư thế của trai hư (bad-boy pose), giễu cợt bằng giai điệu, coi thường tình cảm trai gái và trên hết là coi trọng bản thân thái quá. Theo một cách nào đó, pop punk đã trở thành một loại nhạcpost-punk riêng...

—Cây viết Jason Heller củaVice[4]

Trong một bài viết về pop-punk,Rolling Stone nhận định rằng thuật ngữ là một cái mác có hiệu lực ngược về trước dành cho các ban nhạc punk "luôn ủng hộ việc sáng tác ca khúc hay bên cạnh lập trường chống độc tài và sự chú trọng vào tốc độ, súc tích và sự đơn giản bằng ba hợp âm của punk lại phù hợp tự nhiên với những giá trị cốt lõi của nhạc pop."[3] Jason Heller củaVice cho rằng "sự tôn trọng công khai dành cho truyền thống và sáng tác ca khúc nhạc pop" là một đặc trưng chính của pop-punk.[4] Bill Lamb (từ trang About.com) viết rằng pop-punk là một biến thể của nhạc punk có "nền tảng phần trống và guitar nặng và tốc độ, song được hỗ trợ bởi những giai điệu nhạc pop như phần lớn punk rock ở thập niên 70."Alter the Press! định nghĩa pop-punk là "thể loại có nguồn gốc từ việc pha trộn punk rock với tính dễ cảm của pop".[2]

Về mặt ca từ, pop-punk thường diễn tả các chủ đề khát khao, quan hệ tình cảm, đau khổ, ma túy,ngoại ô và sự nổi loạn ở tuổi thiếu niên.[1][14] Một số phần lời ca khúc pop-punk chú trọng vào những câu đùa và hài hước.[1] Amanda Petrush củaThe New Yorker tóm lược rằng "tính thô ráp" của pop-punk "không nằm ở phần nhạc" mà bằng truyền tải "phổ trải nghiệm của con người - tất cả những niềm khát sao và sự thiếu tự tin ấy."[3]

Lịch sử thể loại

[sửa |sửa mã nguồn]

Nguồn gốc (thập niên 1970–thập niên 1980)

[sửa |sửa mã nguồn]
Xem thêm thông tin:Punk rockPower pop

Tháng 3 năm 1977,John Rockwell củaNew York Times là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ pop punk để miêu tả nhómTom Petty and the Heartbreakers.[15]

Khi những ban nhạc như Green Day, The Offspring, NOFX và Rancid giúp pop punk bùng nổ trong các năm 1994/1995, giới đại chúng đã xem đây là một sự "phục hưng punk" (punk revival) vì đây là lần đầu tiên punk thật sự hiện diện trên thị trường đại chúng kể từ làn sóng các ban nhạc đầu tiên ở thập niên 70. Nhưng như nhiều người biết khi ấy và giờ đây thậm chí còn nhiều người biết hơn nữa, sự bùng nổ của pop punk giữa thập niên 90 chẳng phải là phục hưng cái gì cả. Đó là đỉnh điểm của một thứ âm thanh đã sôi sục trong giới underground từ đầu thập niên 1980. [...] Khi làn sóng punk đầu tiên bắt đầu lắng xuống và nhường chỗ cho âm thanh new wave dễ tiếp cận và được lòng giới đại chúng hơn, một nhóm các ban nhạc đã đưa âm thanh tốc độ, ồn ào của Ramones và Dead Boys theo hướng cực đoan hơn: hardcore. Một khi các ban nhạc hardcore nhận ra họ có thể kết hợp tốc độ, cường độ và tính đơn giản của thể loại nhạc với giai điệu bắt tai, tươi sáng, thì pop punk đã ra đời.

Andrew Sacher, Brooklyn Vegan[16]

Từ lâu, punk rock đã có chung tính dễ cảm với nhạc pop, đặc biệt từ cuối thập niên 1970.[11] Trong cuốn sáchRock and Roll: A Social History (2018), tác giả Paul Friedlander liệt kê các nghệ sĩ người Anh làm đại diện của "làn sóng tổng hợp pop punk mới" xảy ra ở cuối thập niên 1970:Elvis Costello and the Attractions,the Police,the Jam,Billy Idol,Joe Jackson,the Pretenders,UB40,Madness,the Specials,the Beat. Tương tự, Friedlander nhắc tên các nghệ sĩ người Mỹ gồmTalking Heads,Blondie,the B-52s,the MotelsPere Ubu.[17]

Buzzcocks được xem là một trong những nhóm tiên phong của pop-punk.[18]

Heller cho rằng nhómRamones đã tạo tiền đề cho pop-punk với album đầu tay vào năm 1976, nhưng 1978 mới là năm mà thể loại này "trở nên thành công".[4] Ông lưu ý rằng một bộ phận ban nhạc "hiển nhiên là các ban nhạc pop punk theo định nghĩa về thuật ngữ ngày nay, song vào năm 1978, sự khác biệt vẫn chưa rõ ràng đến thế. Nhiều nhóm nhạc punk thời đấy đưa một hoặc hai bài nhạc pop của họ vào danh sách tiết mục - đôi lúc vừa tạo hiệu ứng mỉa mai, vừa rất nghiêm túc."[4] Heller còn thừa nhận rằng nhiều "nhóm pop punk triển vọng vào năm 1978 giống như power pop - một thể loại song song đang phát triển lúc bấy giờ. Song power pop khởi đầu sớm hơn và là hiện tượng giàu chất của người Mỹ hơn".[4] Trong số các ban nhạc pop-punk giàu sức ảnh hưởng ở cuối thập niên 1970, có một nhóm tên làBuzzcocks.[19] Sau đó, một cây viết củaLA Weekly nhận xét album tuyển tậpSingles Going Steady (1989) là "tiền đề cho các ban nhạc punk rock ưa dùng các câu chuyện du dương về tình yêu đã đánh mất và khao khát nổi dậy chống lại cỗ máy."[20] Tương tự, Cooper xem album là một trong những tác phẩm punk giàu sức ảnh hưởng nhất và nói thêm rằng "bội âm nhạc pop [của Buzzcocks] đã biến họ thành nguồn ảnh hưởng chính lên các ban nhạc pop punk ngày nay."[21] Heller víthe Undertones là "ban nhạc phá cách nhất" của dòng nhạc trong thời gian này, đặc biệt đĩa đơn "Teenage Kicks" của họ vào năm 1878 là "một trong những bài nhạc pop punk kinh điển ấn tượng và dứt khoát nhất."[4]

The Descendents được xem là một ban nhạc nổi bật của trào lưu pop-punk ở thập niên 1980.[18]

Bad Religion (thành lập năm 1979) đã giúp đặt nền móng cho phong cách pop-punk sẽ xuất hiện ở thập niên 1990.[22] Họ và một số ban nhạc khác trong giới nhạchardcore punk ở Nam California chú trọng vào cách tiếp cận giai điệu hơn so với những nhóm cùng thời. Theo Myers, Bad Religion "đã sắp xếp lớp lang âm thanh giận giữ và mang màu sắc chính trị của họ với phần hòa âm mượt mà". Myers nói thêm rằng một ban nhạc nữa làDescendents, "đã sáng tác những ca khúc gần như [nhạc surf] lấy cảm hứng từ Beach Boys về những cô nàng, ẩm thực và tuổi trẻ".[11] Cách thức sáng tác vừa tích cực vừa mỉa mai của nhóm bắt đầu tách họ ra khỏi giới nhạc hardcore nghiêm túc hơn. Đĩa LP đầu tayMilo Goes to College (1982) của Descendents mang đến khuôn mẫu ở Mỹ, làm phổ biến các bài nhạc giàu giai điệu hơn ở làn sóng punk đầu tiên.[20] Nhiều ban nhạc pop-punk (kể cảBlink-182) xem Descendents là nguồn ảnh hưởng lớn. Descendents đã mở đường cho các ban nhạc pop-punk tương lai với đề tài về thù ghét phụ huynh, chật vật tìm người yêu và xa lánh khỏi xã hội. Ban nhạchorror punkThe Misfits cũng tác động tới pop-punk bằng albumWalk Among Us ra mắt năm 1982 - tác phẩm tiền thân của pop-punk sau này với hòa âm giọng hát và các giai điệu lấy cảm hứng từ nhạc pop. Hình ảnhgothic của Misfits đã truyền cảm hứng cho các ban nhạc pop-punk hậu bối nhưAlkaline TrioMy Chemical Romance.Marginal Man (ban nhạchardcore punk ở Washington D.C.) đã kết hợp hardcore punk với tiến trình hợp âm có tính giai điệu và phần hát vừa mang giai điệu vừa làm sạch (clean vocal) - chịu ảnh hưởng từ power pop,jangle popnew wave.[16]

Mở rộng ở thị trường underground (cuối thập niên 1980 đến đầu thập niên 1990)

[sửa |sửa mã nguồn]
Ban nhạc pop-punk The Wonder Years

Ở cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, những ban nhạc pop-punk như Green Day,the Queers,The Mr. T ExperienceScreeching Weasel xuất hiện từ hãng thu âmLookout Records với âm thanh chịu ảnh hưởng của Buzzcocks, Ramones và the Undertones.[4][23][24] Tháng 8 năm 1992, nhạc punk rock và pop-punk ở California đầu thập niên 1990 gây được sự chú ý của tạp chíSpin, khi ấn phẩm đăng mẩu truyện có nhan đề "California Screamin'" nói về giới nhạc underground punk rock đầu thập niên 1990 tại California. Bài viết có nhắc đến các ban nhạc pop-punk như Screeching Weasel và Green Day.[25] AlbumMy Brain Hurts (1991) của Screeching Weasel đã tác động tới nhiều ban nhạc pop-punk hậu bối,[26] khi màBlink-182,Allister[27]Alkaline Trio[28] xem nhóm là nguồn ảnh hưởng.[29]Social Distortion (nổi bật với thể hiện các thể loại nhạc như punk truyền thống vàcowpunk) đã gặt hái thành công nhất định bắt đầu ở đầu thập niên 1990, trước khi pop punk bùng nổ trên thị trường đại chúng vào năm 1994.[16] Cuối cùng,album trùng tên (1990) vàSomewhere Between Heaven and Hell (1992) của nhóm đều giành chứng nhận vàng ở Hoa Kỳ.

Phổ biến ở thị trường đại chúng (giữa thập niên 1990 đến thập niên 2000)

[sửa |sửa mã nguồn]

1994–1997: Gây đột phá trên thị trường đại chúng

[sửa |sửa mã nguồn]
Green Day (những người giúp mở ra thành công của dòng nhạc trên thị trường đại chúng) có mặt tạigiải Video âm nhạc của MTV 2009

Sau sự bùng nổ củaNirvana và nhạcgrunge ở đầu thập niên 1990, cả Green Day và Bad Religion ở California đều ký với các hãng thu âm lớn vào năm 1993. Đến năm 1994, pop-punk nhanh chóng trở nên phổ biến trên thị trường đại chúng, ngay trước khi grunge bắt đầu thoái trào. Nhiều ban nhạc punk rock và pop-punk xuất thân từ giới nhạc punk California ở cuối thập niên 1980. Một vài ban trong số này (đặc biệt là Green Day vàthe Offspring) đã giúp khơi lại sự quan tâm đến punk rock ở thập niên 1990.[30] Green Day xuất thân từ giới nhạc punk ởsố 924, Phố Gilman,Berkeley, California.[31] Sau khi được tín đồ hâm mộ ở thị trường underground, ban nhạc ký kết vớiReprise Records và phát hành album đầu tay với hãng thu âm lớn mang tênDookie vào năm 1994.Dookie đã bán ra bốn triệu bản tính đến cuối năm, cho ra một số đĩa đơn được phát liên tục trên MTV, thậm chí ba bài còn vươn đến vị trí quán quân trên bảng xếp hạngModern Rock Tracks.[32] Thành công thương mại vang dội của Green Day đã mở đường cho các ban nhạc pop-punk ở Bắc Mỹ ở thập niên tiếp theo.[33] Năm 1999,Dookie giành được chứng nhận bạch kim củaHiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA). Năm 1994, The Offspring cũng gặt hái thành công trên thị trường đại chúng với albumSmash có được sáu chứng nhận bạch kim của RIAA. 

MTV và các đài phát thanh nhưKROQ-FM của Los Angeles đóng vai trò quan trọng trong thành công của dòng nhạc trên thị trường đại chúng.[34]Warped Tour (bắt đầu vào năm 1995) giúp đưa punk tiến xa hơn đến thị trường đại chúng ở Hoa Kỳ.[35] Với sự nổi lên lần nữa của punk rock, một bộ phận trongtiểu văn hóa punk rock lo ngại rằng âm nhạc đang bị thị trường đại chúng chiếm hữu.[34] Một số người hâm mộ punk rock chỉ trích Green Day vì đã "bán rẻ mình" (selling out) và phản đối nhạc của họ là quá nhẹ nhàng, nhiều màu sắc pop và không phải punk rock đích thực.[32][36][37] Họ cho rằng bằng việc ký kết với các hãng thu âm lớn và xuất hiện trên MTV, những ban nhạc như Green Day đã được đưa vào hệ thống mà nhạc punk được tạo ra, tạo nên thách thức với dòng nhạc này.[38]

1997–2004: Làn sóng thứ hai trên thị trường đại chúng

[sửa |sửa mã nguồn]
Blink-182 biểu diễn trực tiếp vào năm 2009

Năm 1997,Blink-182 phát hành album gây đột phá mang tênDude Ranch và ban nhạc đã trình diễn tại Vans Warped Tour năm ấy. "Dammit" (đĩa đơn thứ hai của album) thường xuyên được phát trên các đài phát thanh modern rock và album có được chứng nhậnvàng của 1998.[39] Đến năm 1999, Blink gặt hái thành công vang dội hơn nữa vớiEnema of the State. Nhà báo Matt Crane miêu tả đĩa nhạc đã khởi đầu cho "một làn sóng nhạc pop punk mới". Ông nói thêm: "Ở bất kỳ thời điểm nào vào cuối thập niên 90/đầu thập niên 2000, chẳng có gì lạ khi thấy Blink-182 vàSum 41 trên MTV. Bạn không thể thoát được đâu. Pop punk đãthịnh hành và nó đã trở thành lựa chọn của [thính giả] đại chúng mà không cần phải bàn cãi."[18] Lamb miêu tả các ban nhạc thuộc làn sóng pop-punk thứ hai (dẫn đầu bởi Blink-182) là "âm nhạc của họ có sự tươi sáng thân thiện với đài phát thanh, song vẫn duy trì phần lớn tốc độ và lập trường của nhạc punk rock truyền thống".Enema of the State lấy được năm chứng nhận bạch kim của RIAA, còn ca khúc "All the Small Things" trong album đạt vị trí thứ sáu (hạng cao nhất) trên theBillboard Hot 100.[40] Album đầu tayAll Killer No Filler của Sum 41 có ba lần đoạt chứng nhận bạch kim tại quê nhà Canada. Ca khúc "Fat Lip" trong album từng giành vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard alternative airplay của Hoa Kỳ[41] và vị trí thứ tám trên UK singles chart.[42]

Trong khoảng thời gian này, một giai đoạn mới của dòng nhạc mang tên "Kỷ nguyên Drive-Thru Records" đã xuất hiện, khi mà một số ban nhạc ký kết với cáchãng thu âm độc lập đã gây được chú ý trên thị trường đại chúng, mà cụ thể là những nghệ sĩ đã ký hợp đồng vớiDrive-Thru Records. Ví dụ về các ban nhạc như vậy gồmNew Found Glory,Allister,Fenix TX,the Early November,Something Corporate,the Starting Line,Midtown,Hellogoodbye,Rx Banditsthe Movielife.[43] Một bài viết vào năm 2017 của tạp chíUpset nhận xét New Found Glory là "ban nhạc pop punk nhất quán và giàu sức ảnh hưởng nhất 20 năm qua",[44] cònAlternative Press nhận xét bài hát "Best of Me" của the Starting Line là một trong những ca khúc giàu sức ảnh hưởng nhất trong lịch sử dòng nhạc.[45]

Avril Lavigne là nghệ sĩ pop-punk quan trọng ở thập niên 2000

AlbumLet Go (2002) củaAvril Lavigne tạo nên tiền lệ cho thành công của những nghệ sĩ pop-punk có nữ hát chính. Nhà báo Nick Laugher nhận định, "không thể phủ nhận" rằng đĩa nhạc đã đưa pop-punk tiến vào thị trường đại chúng, "làm mờ ranh giới giữa dòng nhạc và nhạc pop thuần túy, biến [pop-punk] trở thành một trào lưu văn hóa thay vì một thể loại nhạc."[46] Các nhà phê bình và ấn phẩm khác lưu ý rằng nhờ những bản 'thánh ca' nhạc pop chịu sự điều khiển của punk của Lavigne,[47][48][49] cô đã nổi tiếng và có được danh xưng là "nữ hoàng" của thể loại này.[50][51] Về phần mình, Lavigne thích miêu tả nhạc của cô là "pop rock nặng" hơn là punk.[52][53] Những ban nhạc pop-punk khác có được danh tiếng gồmGood Charlotte,Simple PlanMxPx.[18] AlbumThe Young and the Hopeless (2002) của Good Charlotte đã đoạt ba đĩa bạch kim. Album đầu tayNo Pads, No Helmets...Just Balls (2002) của Simple Plan giành được cú đúp chứng nhận bạch kim, còn tác phẩm kế tiếp của ban nhạc làStill Not Getting Any... (2004) cũng giành đĩa bạch kim.

Tại Liên hiệp Anh,BustedMcFly gây được chú ý nhờ kết hợp âm nhạc pop-punk với thẩm mỹ củanhóm nhạc nam.[54][55]Album đầy tay cùng tên (2002) của Busted giành được bốn chứng nhận bạch kim và album thứ hai -A Present for Everyone có ba lần đoạt chứng nhận bạch kim. Album đầu tayRoom on the 3rd Floor (2004) của McFly giành vị trí số một trên UK Albums Chart[56] và đoạt hai chứng nhận bạch kim.

2004–2010: Kỷ nguyên emo pop và neon pop-punk

[sửa |sửa mã nguồn]
Xem thêm thông tin:Emo pop
Fall Out Boy biểu diễn vào năm 2006

Khi pop-punk vàemo hợp nhất lại thànhemo pop, hãng thu âmFueled by Ramen trở thành trung tâm của trào lưu, khi họ là đơn vị phát hành hàng loạt album bán chạy đoạt đĩabạch kim từ các ban nhạc nhưFall Out Boy,Panic!at the DiscoParamore. Bài hát "Sugar, We're Goin Down" (2005) của Fall Out Boy nhận được đông đảo lượt phát sóng, leo lên vị trí số 8 trên bảng xếp hạngBillboard Hot 100 của Hoa Kỳ.[57]Plain White T's (một ban nhạc emo pop khác của Illinois) đã gặt hái thành công lớn trên thị trường đại chúng. AlbumEvery Second Counts (2006) của nhóm này leo lên vị trí thứ 10 trên bảng Billboard 200, còn đĩa đơn "Hey There Delilah" của họ giành vị trí quán quân.[58] Ban nhạc đến từ New JerseyMy Chemical Romance là một trong những gương mặt của emo pop ở thập niên 2000. Hai albumThree Cheers for Sweet Revenge (2004) vàThe Black Parade (2006) của nhóm này đều bán được hơn ba triệu bản cho mỗi album, chỉ tính riêng ở Hoa Kỳ. The Black Parade ra mắt ở vị trí số hai trênBillboard 200. Đĩa đơn chủ đạo của album là "Welcome to the Black Parade" chiếm ngôi đầu bảng xếp hạngAlternative Songs của Hoa Kỳ và giành vị trí thứ chín trênBillboard Hot 100.[59] Album thứ baLouder Now (2006) củaTaking Back Sunday ra mắt ở vị trí thứ hai trênBillboard 200.[60]

Theo cây viết Andrew Sacher củaBrooklyn Vegan, sau thành công của những ban nhạc "cực kỳ nổi tiếng" ở thập niên 2000 như Fall Out Boy,Paramore và My Chemical Romance, "ranh giới giữa pop punk và emo dường như chẳng còn tồn tại nữa."[16] Cuối thập niên, một số ban nhạc pop-punk đi theo định hướng âm nhạc khác, như Panic! at the Disco sáng tác đĩa nhạcPretty. Odd. (2008) theo phong cách baroque và lấy cảm hứng từ The Beatles, còn Fall Out Boy thử nghiệm với glam rock, blues rock và R&B trong albumFolie a Deux (2008). Cả hai tác phẩm đều khiến người hâm mộ bối rối và phản ứng dữ dội.Folie a Deux tiêu thụ kém hơn những album trước của Fall Out Boy, thể hiện sự phản ứng dữ dội từ nhóm người hâm mộ trung thành của họ vì nhóm nhạc này đã thử nghiệm phong cách âm nhạc khác so với âm thanh pop-punk xây dựng tên tuổi của họ.[61][62]

Cuối thập niên 2000, một thể loại pop-punk gây chú khác đã xuất hiện gọi là neon pop-punk - phong cách pop-punk kết hợp nhiều yếu tố hơn của pop và nhạc điện tử so với truyền thồng của dòng nhạc.[63] Những nhóm nhạc nổi tiếng theo phong cách này thời bấy giờ gồmAll Time Low,the Maine,the Cab,[63]Metro Station,[64]Boys Like Girls,Cobra StarshipForever the Sickest Kids.[65] Đĩa đơn "Shake It" (2007) của Metro Station giành vị trí thứ 10 trênBillboard Hot 100[66] và vị trí thứ sáu trên UK Singles Chart.[67] Đĩa đơn "Dear Maria, Count Me In" (2008) của All Time Low giành được cú đúp chứng nhận bạch kim ở Hoa Kỳ,[68] trong khi albumNothing Personal (2009) của nhóm giành vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Billboard Digital Albums chart.[69] Album đầu tayCan't Stop Won't Stop (2008) của The Maine đoạt hạng chín trên bảng xếp hạngBillboard Digital Albums Chart.[70] AlbumHot Mess của Cobra Starship giành vị trí thứ tư trênBillboard 200.[71] Album thứ haiLove Drunk (2009) của Boys Like Girls giành hạng tám trên bảngBillboard 200.[72]

Thoái trào trên thị trường đại chúng (thập niên 2010)

[sửa |sửa mã nguồn]

Đầu thập niên 2010, pop-punk đánh mất sự phổ biến trên thị trường đại chúng khi các ban nhạc rock và âm nhạc chú trọng vào guitar trở nên hiếm gặp hơn trên đài phát thanh nhạc pop chú trọng vào dance.[73] Một vài nghệ sĩ (nhưNew Found Glory) đã chứng kiến lượng khán giả đến xem hòa nhạc của mình giảm dần.[74] Devon Maloney củaMTV viết: "Những ban nhạc pop punk và emo không giành suất diễn chính ởCoachella hoặcBonnaroo. Hiếm hoi lắm mới thấy họ được góp mặt trên các sân khâu lễ hội nhạc đại chúng" và lưu ý rằng pop-punk cũng biến mất trên mặt báo theo cách tương tự. Những tạp chí duy nhất đưa hình các ban nhạc pop-punk là những ấn phẩm thị trường ngách nhưAlternative Press và đôi khi là tạp chí tuổi thiếu niên, trong tạp chí pop-punk giàu sức ảnh hưởngAMP ngừng xuất bản vào năm 2013.[75] Sự thoái trào trên thị trường đại chúng của thể loại, cộng với sự việc nhiều sân khấu biểu diễn cỡ trung bình gắn liền với dòng nhạc đóng cửa đã khiến cho nhiều địa điểm tổ chức và hãng thu âm trở lại hoạt động theo hình thứcDIY - những hoạt động từng góp phần xây dựng nên trào lưu punk.[76][77]

Đến năm 2012, những ban nhạc pop-punk gặt hái thành công nhỏ trên thị trường đại chúng đã trở lại với hình thức hoạt động nguyên thủy. Cách hoạt động này từng được xem là "phong cách hoạt động vi mô làm thu hút sự chú ý của thị trường đại chúng ngay từ đầu."[75]Chad Gilbert của New Found Glory viết trên một trang báo thuộc mục bình luận cá nhân của bài viết trênAlternative Press có nhan đề "Why Pop-Punk's Not Dead—And Why It Still Matters Today" (Vì sao pop-punk chưa chết và vì sao nó vẫn có vai trò quan trọng ngày nay): "Đây không phải một thể loại nhạc đã chết, hay lý do không có bài hát nào được phát trên đài phát thanh để chứng minh điều đó cũng không quan trọng... Pop-punk có ý nghĩa với nhiều người và với tôi, một ban nhạc chơi dòng nhạc này thành công khi hoạt động lâu dài, đi lưu diễn nhiều và trung thực với người hâm mộ của bạn."[74]

Đến thập niên 2010, nhiều ban nhạc pop-punk đã tan rã. "Dù cơ bản từng là những ngôi sao nhí, giờ đây các thành viên của họ là nhạc sĩ trưởng thành hi vọng thoát khỏi những cạm bẫy tuổi thiếu niên từng mang lại sự nghiệp cho họ."[75] Fall Out Boy và Paramore (những nhóm nhạc đã gặt hái thành công đại chúng trong loại nhạc này) có hai album quán quân (Save Rock and RollParamore) cùng có mặt trênBillboard 200. Fall Out Boy cùng với các ban nhạc pop-punk khác từng đạt đỉnh sự nghiệp ở giữa thập niên 2000 bắt đầu thử nghiệm nhiều mặt pop của pop punk hơn nhằm duy trì tính kết nối và giữ được sự quan tâm của người hâm mộ trung thành, đồng thời thu hút sự chú ý của thế hệ khán giả mới hơn có thể không thích âm thanh truyền thống của họ hoặc không liên kết nhiều đến những chủ đề punk ở thập niên 1970.[78] Sự nổi tiếng của họ đã dấy lên những cuộc bàn luận về tình trạng của dòng nhạc. Maloney cho rằng những đĩa nhạc này có thể không được xem là pop-punk.[75]

2012–2016: Phục hưng trong giới underground

[sửa |sửa mã nguồn]
Ban nhạc pop-punk The Queers

Đầu thập niên 2010, một làn sóng mới của các nhóm nhạc pop-punk đã xuất hiện,[79][80] mà dẫn đầu làthe Wonder Years,State Champs,Neck Deep,Real FriendsKnuckle Puck.[81] Dave Beech củaClash lưu ý rằng những nhóm này "[u] tối và trưởng thành hơn" so với trước. Họ chịu ảnh hưởng và "đôi khi hờ hững" trước nhạcemo thập niên 1990.[80] Bình luận viên âm nhạcFinn McKenty cũng nhắc đếnhardcore punk là nguồn ảnh hưởng nổi bật trong giai đoạn này.[81] Trong đĩaThe Upsides (2010) của Wonder Years, giọng ca Dan Campbell hát về "His early twenties soul-searching and tales of strife",[a] gây "dấu ấn với một thế hệ [mới] và truyền cảm hứng cho vô số người bắt chước theo."[82] Sự việc đã đẩy Campbell lên vị trí "tiên phong của làn sóng mới" và album tác động đến một làn sóng mới của các ban nhạc pop-punk.[82]Rock Sound điền tên albumThe Greatest Generation của The Wonder Years vào danh sách những album hay nhất năm 2013, họ nhận xét tác phẩm là "album định nghĩa xem liệu đây có phải là năm tuyệt vời nhất của dòng nhạc trong cả một thập kỷ không."[83]Kerrang! nhận xét album "đã xé nát các bản thiết kế", đẩy dòng nhạc tiến tới "những đỉnh cao phát minh mới, cả về mặt ca từ và âm nhạc."[84] AlbumWhat You Don't See (2013) củaThe Story So Far "đã củng cố vị trí của họ trên đầu bảng xếp hạng nu pop punk".[85] Đầu năm 2014, ban nhạc người WalesNeck Deep phát hành album đầu tay mang tênWishful Thinking. Về sau,Rock Sound ghi danh album là "đĩa nhạc pop punk vĩ đại nhấtmọi thời của Liên hiệp Anh."[86] Trong giai đoạn này, mẫu áo phông in hình "Defend Pop Punk" và một khẩuAK-47 củaMan Overboard trở thành biểu tượng phổ biến trong giới nhạc,[87] đến mức một số ấn phẩm đã miêu tả giai đoạn này là "Defend Pop Punk Era".[b][88][89][90]

Tôi nghĩ pop-punk là một con thây ma. ... Nó im ắng một lúc rồi được hồi sinh theo kiểu gần như bất tử vậy. ... Trở lại thời điểm [pop-punk] là dòng đại chúng, bạn sẽ thấy nó trên MTV và những phương tiện tương tự. Giờ đây loại nhạc này đã khác, nó có cơ hội chiến đấu và đang bò trên đường trở lại. Loại nhạc bắt đầu với một đám đông khá chọn lọc, nhưng giờ đây nó đang mở rộng, tiếp cận được ngày càng nhiều người hơn nữa.[91]

– Kelen Capener củaThe Story So Far (2012)

Albumcùng tên (2014) của ban nhạc người Úc5 Seconds of Summer ra mắt ở vị trí quán quân trên bảng xếp hạngBillboard 200 và ở nhiều quốc gia khác.[92] Nhà báo Harriet Gibsone củaThe Guardian miêu tả album là "cơn sốt cuồng loạn vốn chỉ là đặc quyền của một nhóm nhạc nam (boyband) đình đám".[93] Tuy nhiên, việc phân ban nhạc vào thể loại pop-punk đã gây tranh cãi.Alternative Press miêu tả ban nhạc này quan trọng với khâu tiếp thị giới nhạc pop-punk.[92] Còn trong một buổi phỏng vấn của Terry Bezer với tạp chíClash, anh miêu tả họ "không phải là pop-punk... [song] là một cánh cổng giá trị cho những cậu nhóc mới lớn bắt đầu những bước đi đầu tiên đến với những ban nhạc... có nhiều giá trị hơn."[94] Trong khoảng thời gian này, một số nghệ sĩ pop khác chịu ảnh hưởng pop-punk đã có được sự chú ý của khán giả đại chúng nhưCharli XCX[95]Halsey.[96]

Từ đầu đến giữa thập niên 2010, một số ban nhạc pop-punk bắt đầu những chuyến lưu diễn kỷ niệm hoạt động, họ trình bày đầy đủ một vài album nổi tiếng nhất của mình. Khi mà một vài thành viên của những ban nhạc này có cảm xúc lẫn lộn về những tiết mục ấy, thì hiện tượng những tour diễn này bán vé chạy khá thường xuyên, tốt hơn cả khoảng thời gian đầu.[75] Những nhân viên chiêu thị tại các câu lạc bộ ở Liên hiệp Anh đã tạo ra những đêm nhạc như để trân trọng giá trị lâu dài của dòng nhạc.[97] The Warped Tour vẫn thu hút tới hàng trăm ngàn người tham dự mỗi năm. Năm 2012, tour diễn thu hút đến 556.000 khán giả dự nhạc hội, đạt lượng khán giả cao thứ ba của sự kiện.[75] Bobby Olivier củaThe Star-Ledger viết: "Thể loại nhạc... tiếp tục tự chuyển mình và Warped chính là vũ hội pop punk."[98]

Năm 2016,Rolling Stone đăng tin rằng pop-punk "vẫn là một trong những thể loại rock nổi tiếng và chiếm ưu thế nhất". Tạp chí tiến hành một cuộc thăm dò của độc giả để chọn ra "10 album pop-punk hay nhất mọi thời đại". Kết quả chung cuộc của danh sách gồm Green Day (Dookie,American Idiot,Nimrod), Blink-182 (Enema of the State,Take Off Your Pants and Jacket,Dude Ranch), the Ramones (Ramones), the Offspring (Smash),Jimmy Eat World (Bleed American) vàGeneration X(Valley of the Dolls).[99]

2016–2019: Sự quan tâm mới của thị trường đại chúng

[sửa |sửa mã nguồn]

Cuối thập niên 2010, thể loại pop-punk đã tác động đến sự phát triển củaemo rap. Nhiều rapper emo có được sự chú ý của thị trường đại chúng trong thời gian này. Đặc biệt,Lil Peep,Lil Uzi Vert,Juice WRLDXXXTentacion đều lên tiếng về tình yêu và ảnh hưởng của họ từ pop-punk.[100][101] Thậm chí ở thập niên 2010, rapper emoWicca Phase Springs Eternal còn là thành viên của ban nhạc pop-punk giàu ảnh hưởngTigers Jaw.[102] Sự việc đã đem lại sự quan tâm mới đến thể loại trong văn hóa đại chúng,[100][101] khiến cho một số nghệ sĩ nổi tiếng phát hành các bài hát pop-punk đến tận cuối thập niên. Ngày 5 tháng 9 năm 2018, rapper emoLil Aaron và ca sĩ nhạc popKim Petras đã phát hành ca khúc pop-punk "Anymore".[103] Ngày 13 tháng 2 năm 2019,Yungblud và ca sĩ nhạc popHalsey phát hành bài hát pop-punk "11 Minutes" hợp tác cùngTravis Barker.[104] Bài hát giành chứng nhận vàng ở Hoa Kỳ,[105] đoạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạngBillboard Bubbling under Top 100 Chart[106] và được trình bày tại lễ trao giảiiHeartRadio Music Awards 2019.[107] Ngày 7 tháng 9 năm 2019,Machine Gun Kelly (một rapper đã thành danh suốt cả thập kỷ) đã phát hành bài hát pop-punk "I Think I'm Okay" hợp tác cùng Yungblud và Travis Barker. Đây là sản phẩm đầu tiên của anh theo thể loại này. Ca khúc đã được đề cử tạigiải âm nhạc Billboard 2019[108] và đoạt chứng nhận bạch kim chỉ trong một năm.[109] Ngày 12 tháng 7 năm 2019, Cold Hart và Yawns của nhóm nhạc emo rap giàu ảnh hưởngGothBoiClique đã phát hành album pop-punkGood Morning Cruel World.[110] Ngày 18 tháng 9 năm 2019, rapper emoLil Tracy phát hành ca khúc pop-punk "Beautiful Nightmare".[111]

Tháng 10 năm 2019, một bài viết củaMic chỉ ra rằng emo rap đã mang đến sự quan tâm cho một làn sóng mới của các nhóm nhạc pop-punk nhưStand Atlantic,Doll Skin,Waterparks và ban nhạc93PUNX của rapperVic Mensa.[112]Alternative Press cũng chỉ ra rằng những ban nhạc Anh gồmTrash Boat,Boston ManorAs It Is đã có "những đóng góp nổi bật cho kỷ nguyên phục hưng gần đây nhất của dòng nhạc".[113]

Tái thịnh hành trên thị trường đại chúng (2020–nay)

[sửa |sửa mã nguồn]
Các ẩn phẩm nhưKerrang! đã ghi nhậnMachine Gun Kelly là người dẫn đầu sự phục hưng pop-punk (pop-punk revival) ở thập niên 2020.

Tháng 9 năm 2020, Machine Gun Kelly phát hành album phòng thu thứ nămTickets to My Downfall - album đầu tiên của anh hoàn toàn theo chất liệu pop-punk. Album giành vị trí quán quân trên bảng xếp hạngBillboard 200, trở thành album nhạc rock đầu tiên nắm ngôi đầu bảng kể từFear Inoculum củaTool vào tháng 9 năm 2019.[114] Nhật báoEvening Standard ghi nhận album đã "thu hẹp khoảng cách" giữa giới nhạc pop punk hiện đại và sự quan tâm của thị trường đại chúng vốn phát triển từ giới nhạc emo rap.[108] Bài hát "My Ex's Best Friend" trích từ albumTickets to My Downfall đã giành vị trí thứ 21 trênBillboard Hot 100. Nhờ hiện tượng này, một số phương tiện truyền thông bắt đầu ghi công anh là người dẫn đầu sự phục hưng của pop-punk (pop-punk revival).[115][116][117]

Một bài viết củaKerrang! ghi nhận Machine Gun Kelly cũng như Yungblud đã giúp thể loại có lại được sự chú ý của thị trường đại chúng. Ngoài ra, ấn phẩm nhắc đếnTikTok là một trong nhân tố chính, khi mà các video gắn nhãn #poppunk nhận được 400 triệu lượt xem tính đến ngày 21 tháng 1 năm 2021. Trên ứng dụng ấy, các xu hướng lan truyền (viral trend) xuất hiện nhờ sử dụng các bài nhạc của những ban nhạc pop-punk như All Time Low, Simple Plan và Paramore.[118] Thậm chí một số nhà sáng tạo nội dung nổi tiếng trên TikTok bắt đầu phát hành nhạc theo thể loại này trong khoảng thời gian đó. Đáng chú ý, TikTokerJxdn bắt đầu phát hành nhạc pop-punk music vào tháng 2 năm 2020,[119] trongHuddy (lúc ấy tên là LilHuddy) làm điều tương tự vào năm 2021 khi ra mắt đĩa đơn đầu tay "21st Century Vampire".[120] Sự việc khiếnPolygon đặt tên cho làn sóng nghệ sĩ mới này là "TikTokcore".[121] Cây viết Al Shipley củaSpin miêu tả pop-punk và mối liên hệ của dòng nhạc với hip hop là "thế lực thương mại không thể ngăn cản" của năm 2020.[122]

Our Culture Mag xemKennyHoopla là một "nhân tố chính trong [sự trở lại] của dòng nhạc",[123] cònKerrang! mệnh danh anh là "thủ lĩnh thế hệ pop punk mới".[124] Bài hát pop-punk "Good 4 U" (2021) củaOlivia Rodrigo giành vị trí nhất bảng xếp hạng đĩa đơn củaBillboard.[125] Theo tạp chíSlate, đó là "bài nhạc rock quán quân Hot 100 đầu tiên trong nhiều năm qua".[126] Những ấn phẩm nhưthe Face,the IndependentUSA Today cho rằng làn sóng này có tính đa dạng về chủng tộc, giới tính và khuynh hướng tình dục nhiều hơn so với các thời đại trước.[127][128][129] Tháng 2 năm 2021, một bài viết củaLouder Sound coi những nghệ sĩ nhưMeet Me at the Altar,Yours Truly,Noah Finnce và Jxdn là "tái tạo diện mạo mới cho pop-punk năm 2021".[130]

Năm 2023,Cassadee Pope (từ ban nhạc đã ngừng hoạt động tên làHey Monday) thông báo cô đã bỏ dòng nhạc đồng quê và trở lại với gốc rễ pop-punk, khi cô cho phát hành các đĩa đơn "People That I Love Leave", "Almost There" và "Coma" (bài hợp tác với Taylor Acorn).[131][132] Tháng 8 năm 2023, Rodrigo phát hành ca khúc "Bad Idea Right?" (tác phẩm có những ảnh hưởng của pop-punk và indie rock) trích từ album phòng thu thứ hai mang tênGuts. Bài hát giành vị trí nhất bảngHot Rock & Alternative Songs củaBillboard.[133] Ngày 18 tháng 10 năm 2024,Bruno Mars và ca sĩK-popRosé phát hành đĩa đơn pop-punk "Apt.".[134] Ca khúc trở thành một trong những bài thành công nhất về lượng streaming tại cả Hoa Kỳ lẫn thế giới, xếp đầu các bảng xếp hạng streaming toàn cầu thường nhật trên thị trường Hoa Kỳ và toàn cầu củaSpotify.[135]

Các nhánh và tiểu thể loại

[sửa |sửa mã nguồn]

Emo pop

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Emo pop

Giữa thập niên,Emo pop trở nên phổ biến với các hãng thu âm nhưFueled by Ramen - đơn vị chuyên phát hành album đạt đĩa bạch kim từ các ban nhạc nhưMy Chemical Romance,Fall Out Boy,Panic!at the Disco,Red Jumpsuit ApparatusParamore.[136] Maloney viết: "Khi mà nhiều người hâm mộ pop punk kiên quyết phủ nhận bất kỳ liên hệ nào giữa nghệ sĩ yêu thích của họ và cái nhãn "emo," các ban nhạc kết hợp hai yếu tố này đã dần đưa hai thể loại vào chung một bối cảnh."[75]

Easycore

[sửa |sửa mã nguồn]
Đừng nhầm lẫn vớiHappy hardcore.

Easycore (có những tên gọi ít phổ thông hơn làpopcore,dudecore,softcore,happy hardcoreEZ)[137] là thể loại nhạc kết hợp pop-punk với các yếu tố củametalcore.[138] Dòng nhạc thường sử dụng các đoạnbreakdown,giọng hát screaming, tiến trình hợp âmtrưởng, các đoạn riff vàsynthesizer. Nguồn gốc của dòng nhạc bắt nguồn từ những ban nhạc pop-punk đầu những năm 2000 nhưSum 41New Found Glory.Album cùng tênStick and Stones của New Found Glory cùng bài hát "Fat Lip" của Sum 41 là một trong những sản phẩm đầu tiên và giàu ảnh hưởng nhất theo dòng nhạc này được phát hành. Tên gọi của phong cách bắt nguồn từ tour diễn "Easycore tour" - sự kiện có sự tham gia củaA Day to Remember,Four Year Strong và New Found Glory. Bản thân cái tên "easycore" cũng là chơi chữ dựa trên cái tên "hardcore punk".[137]

Neon pop-punk

[sửa |sửa mã nguồn]
Đừng nhầm lẫn vớisynth-punk.

Neon pop-punk (hay còn gọi đơn giản làneon pop)[139] là một loại hình nhạc pop-punk chú trọng vào đànsynthesizer.[140] Cây viết Tyler Sharp củaAlternative Press ghi chép rằng tuy đây không phải trường hợp đầu tiên mà "một ban nhạc quyết định đưa các phím đàn mơ hồ vào tiến trình hợp âm của họ, song đây chính là thời điểm để công thức ấy hoàn thiện."[140] Kika Chatterjee củaAlternative Press nói thêm rằng cuối thập niên 2000 "mang đến những giai điệu bập bùng rực rỡ của đàn synth, làm thay đổi toàn bộ định nghĩa của [pop punk]", khiến dòng nhạc bị gán nhãn "neon".[141] Sharp chỉ ra album đầu tayUnderdog Alma Mater (2008) củaForever the Sickest Kids là "một khoảng khắc lớn" với dòng nhạc.[142]

Phê bình

[sửa |sửa mã nguồn]

Theo Iain Ellis củaPopMatters, cộng đồng nhạc punk rock thường coi pop-punk là "quá ủy mị, giả tạo, bắt chước và vô hồn".[143] Trong một buổi phỏng vấn vào năm 2003, tay guitarSteve Diggle của Buzzcocks cho rằng punk đã trở thành một "chiếc ô khổng lồ". Anh bình luận: "Bạn biết đấy, công bằng mà nói với các ban nhạc nhưGreen Day và những nhóm khác, họ được truyền cảm hứng từ chúng tôi, The Clash và các nhóm tiền bối khi họ còn rất nhỏ, nhưng xuất thân của họ thì khác. Khi chúng ta bắt đầu, nhạc punk với tôi là punk của the Clash, [Sex] Pistols và Buzzcocks ở nơi đây [Liên hiệp Anh], còn ở [Hoa Kỳ] thì là punk của nhómDolls,Iggy và Ramones. Chúng tôi phát minh ra phong cách của mình hệt như cách của the Clash và Ramones. Nhưng trong các ban nhạc hậu bối thì một vài nhóm trong số họ chỉ bắt chước những nhóm tiền bối, còn tôi muốn họ chơi nhạc theo phong cách riêng nhiều hơn một chút."[144]

Green Day bị cáo buộc bán rẻ mình (selling out) vì họ đã ký với một hãng thu âm lớn và tham gia vào thị trường đại chúng kể từ khi phát hànhDookie.[145] John Lydon của ban nhạcSex Pistols ở thập niên 1970 phê bình Green Day và cho rằng nhóm này không phải một ban nhạc punk: "Đừng cố nói với tôi rằng Green Day là ban nhạc punk. Họ chẳng phải punk, họ chỉ là những kẻ kém chất lượng và hùa theo đám đông bằng những thứ họ chẳng tự nghĩ ra. Tôi nghĩ họ đúng là những kẻ giả tạo."[146] Billie Joe Armstrong (ca sĩ chính và tay guitar của Green Day) phát biểu: "Đôi khi tôi nghĩ bọn tôi đã trở nên thừa thãi vì giờ đây bọn tôi đã là một ban nhạc lớn rồi, chúng tôi kiếm được rất nhiều tiền. Chúng tôi không còn là [ban nhạc] punk rock nữa. Nhưng rồi tôi chợt nghĩ và nói: 'Bạn có thể lấy chúng tôi khỏi môi trường punk rock, song không thể lấy punk rock khỏi chúng tôi được.'"[145]

Blink-182 cũng vấp phải rất nhiều sự phê bình từ người hâm mộ punk rock. Họ bị cáo buộc đã bán rẻ mình với phong cách pop-punk lấy cảm hứng từ nhạc pop. Lydon coi Blink-182 là "đám nhóc đần độn ... bắt chước theo nghệ sĩ hài kịch."[147]Tom DeLonge (ca sĩ kiêm tay guitar của Blink-182) đáp lại lời phê bình: "Tôi yêu tất cả những lời phê bình ấy, vì bọn tạp chí ấy thật khốn kiếp! Tôi cực kỳ ghét việcMaximum Rocknroll và bọn tạp chí kia nghĩ rằng chúng biết punk là như thế nào. Tôi nghĩ punk chọc cáu người ta nhiều hơn là tuân theo những quan điểm thuần chay kia."[148]

Trong buổi phỏng vấn vào tháng 11 năm 2004, Deryck Whibley (ca sĩ chính và tay rhythm guitar của Sum 41) chia sẻ: "Thậm chí chúng tôi còn chẳng tự nhận mình là [ban nhạc] punk. Chúng tôi chỉ là ban nhạc rock thôi. Chúng tôi muốn làm gì đó khác đi. Chúng tôi muốn làm việc của riêng mình. Âm nhạc với chúng tôi luôn như vậy đấy."[149] Nghệ sĩ lead guitar Dave Baksh của Sum 41 nhắc lại phát biểu của Whibley: "Chúng tôi chỉ tự nhận mình là [ban nhạc] rock thôi... Nói chúng tôi là [ban nhạc] punk thì dễ hơn, đặc biệt xunhg quanh là lũ nhóc nghĩ chúng biết punk là gì. Cái chuyện chẳng dựa trên bất cứ quy tắc gì có lẽ là một trong những quy tắc nghiêm ngặt nhất thế giới."[150]

Nhà phê bình âm nhạc Jeff Terich của Treblezine nhận định rằng cuộc tranh cãi về tính đúng sai của "pop-punk" thật thừa thãi. Anh chỉ trích những cuộc bàn luận về việc các nhóm punk dần trở nên thương mại hóa và nhuốm màu thị trường đại chúng hơn, xuất hiện nhiều "như nấm mốc đen vậy, nhưng mỉa mai thay tất cả [nhóm] punk đều là pop hết. Ramones? Nhóm pop đấy. The Clash? Cũng pop. Còn The Buzzcocks? Đúng rồi họ cũng là nhóm pop luôn."[151]

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]

Ghi chú

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Tạm dịch: "trong những năm tháng tuổi đầu đôi mươi, tôi tìm kiếm tâm hồn và những câu chuyện tranh đấu".
  2. ^Tạm dịch:Bảo vệ kỷ nguyên pop-punk"

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^abcdeAnthony, David; Heller, Jason (6 tháng 3 năm 2014).“A beginner's guide to the bouncy buzz of pop punk” [Cẩm nang dành cho người mới về âm thanh rè sôi động của pop punk] (bằng tiếng Anh).The A.V. Club.Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  2. ^abReid, Sean (1 tháng 6 năm 2011).“Feature: 'What Pop Punk Means to Me' [Bài viết nổi bật: 'Ý nghĩa của pop punk đối với tôi'].Alter the Press! (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  3. ^abcdeChristopher, R. Weingarten; Leor, Galil; Hank, Shteamer (15 tháng 11 năm 2017).“50 Greatest Pop-Punk Albums” [50 album pop-punk vĩ đại nhất].Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  4. ^abcdefghiHeller, Jason (26 tháng 2 năm 2018).“How 1978 Kicked Off the Explosion of Pop-Punk” [Năm 1978 đã khơi dậy sự bùng nổ của pop-punk ra sao?].Vice (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  5. ^abBorack 2007, tr. viii.
  6. ^Blenkinshop, Richard (26 tháng 4 năm 2021).“The Guitarists and Gear of 2000s Pop Punk” [Các nghệ sĩ guitar pop punk và phụ kiện của họ ở thập niên 2000].reverb.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  7. ^“50 Greatest Punk Albums of All Time” [50 album nhạc punk vĩ đại nhất] (bằng tiếng Anh). Revolver. 24 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  8. ^Cogan 2006, tr. 86.
  9. ^“Pop punk” (bằng tiếng Anh).AllMusic. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  10. ^“Skate punk” (bằng tiếng Anh).AllMusic. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  11. ^abcMyers 2006, tr. 52.
  12. ^Shaw, Greg (1994).“It was 20 years ago today ...” [Ngày hôm nay đã tròn 20 năm...] (bằng tiếng Anh). Bomp.com.Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  13. ^Doyle, Patrick; Kobiella, Chris (29 tháng 1 năm 2020).“Billie Joe Armstrong: My Life in 15 Songs” [Billie Joe Armstrong: Đời tôi trong 15 bài hát].Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  14. ^Staff (5 tháng 6 năm 2019).“The 100 Best Pop Punk Bands” [100 ban nhạc pop punk hay nhất] (bằng tiếng Anh).Consequence of Sound. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  15. ^Rockwell, John (9 tháng 3 năm 1977).“Cabaret: Tom Petty's Pop Punk Rock Evokes Sounds of 60's” [Cabaret: Nhạc pop punk rock của Tom Petty gợi đến âm thanh của thập niên 60].The New York Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2025.
  16. ^abcdSacher, Andrew (29 tháng 7 năm 2020).“15 '80s punk albums that shaped the '90s/'00s pop-punk boom” [15 album nhạc punk ở thập niên 80 đã định hình sự bùng nổ của pop-punk ở các thập niên 90/2000].Brooklyn Vegan (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  17. ^Friedlander, Paul (2018).Rock And Roll: A Social History [Rock And Roll: Lịch sử xã hội] (bằng tiếng Anh). Taylor & Francis. tr. 254.ISBN 978-0-429-96325-4.
  18. ^abcdCrane, Matt (17 tháng 4 năm 2014).“The 5 great eras of pop-punk, from the '70s to today” [5 kỷ nguyên vĩ đại của pop-punk từ thập niên 70 đến nay].Alternative Press (bằng tiếng Anh).Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  19. ^Sullivan, Jim (7 tháng 12 năm 2010).“Buzzcocks' Pete Shelley Punk Influence Still Reverberates” [Ảnh hưởng punk từ Pete Shelley của Buzzcocks vẫn còn dư âm] (bằng tiếng Anh). WBUR News. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  20. ^abPell, Nicholas (9 tháng 7 năm 2013).“The 5 Best Pre-Dookie Pop-Punk Records” [Năm đĩa nhạc punk hay nhất ra đời trướcDookie].LA Weekly (bằng tiếng Anh).Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2025.
  21. ^Ryan, Cooper (26 tháng 3 năm 2019).“Punk's Most Influential Albums” [Những album nhạc punk giàu ảnh hưởng nhất].About.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  22. ^Total Guitar (6 tháng 12 năm 2017).“7 reasons why Bad Religion's Brett Gurewitz is the godfather of Californian punk” [Bảy lý do vì sao Brett Gurewitz của Bad Religion là bố già của nhạc punk xứ California].Louder (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  23. ^Law, Saw (24 tháng 6 năm 2021).“The 50 Best Albums From 1991” [50 album hay nhất tính từ năm 1991] (bằng tiếng Anh).Kerrang!. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  24. ^Nelson, Chris (12 tháng 11 năm 1996).“Queers Latest Album Is Their Best” [Album mới nhất của Queers là tác phẩm hay nhất của họ] (bằng tiếng Anh).MTV.Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  25. ^Fidler, Daniel (tháng 8 năm 1992).“California Screamin'.Spin (bằng tiếng Anh). SPIN Medic LLC.8.ISSN 0886-3032. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  26. ^DaRonco, Mike.“My Brain Hurts - Screeching Weasel” (bằng tiếng Anh).AllMusic. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  27. ^Wallace, Lynn (8 tháng 11 năm 2005).“Allister”.Ink 19 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  28. ^Yancey, Bryne (1 tháng 12 năm 2009).“Matt Skiba discusses sonic direction of upcoming Alkaline Trio album” [Matt Skiba bàn luận về hướng âm thanh ở album sắp ra mắt của Alkaline Trio] (bằng tiếng Anh). Punknews.org. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  29. ^Martens, Todd (17 tháng 9 năm 2010).“Don't listen to me, I have Screeching Weasel tattooed on my arm, but ...” [Đừng có nghe tôi, tôi có xăm Screeching Weasel lên cánh tay đấy, nhưng ...].Los Angeles Times (bằng tiếng Anh).Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  30. ^DeRogatis 2003, tr. 357.
  31. ^Caramanica, Jon (25 tháng 9 năm 2012).“Pop-Punk Bands, Now Grown Up” [Những ban nhạc pop-punk giờ đây đã trưởng thành].The New York Times (bằng tiếng Anh). New York City.ISSN 0362-4331.
  32. ^abStrauss, Neil (5 tháng 2 năm 1995).“Has Success Spoiled Green Day?” [Phải chăng thành công đã làm hư Green Day?].The New York Times (bằng tiếng Anh). New York City.ISSN 0362-4331.
  33. ^D'Angelo, Joe (15 tháng 9 năm 2004).“How Green Day's Dookie Fertilized A Punk-Rock Revival” [Dookie của Green Day đã thúc đẩy sự phục hưng punk rock ra sao].MTV (bằng tiếng Anh).Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  34. ^abGold, Jonathan (tháng 11 năm 1994). “The Year Punk Broke”.Spin. New York City:Spin Media.ISSN 0886-3032.
  35. ^Diehl 2007, tr. 2, 145, 227.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFDiehl2007 (trợ giúp)
  36. ^“Sex Pistols' John Lydon Brands Green Day 'Punk Imitators' [John Lydon của Sex Pistols xem Green Day là 'những kẻ bắt chước nhạc punk'] (bằng tiếng Anh). Live4ever.uk.com. 1 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  37. ^“Green Day Fail To Impress Punk Icon” [Green Day không gây được ấn tượng với biểu tượng nhạc punk].Contactmusic.com (bằng tiếng Anh). 23 tháng 6 năm 2005.Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  38. ^Myers 2006, tr. 120.
  39. ^Hochman, Steve (30 tháng 5 năm 1999).“Psst... Blink-182 Is Growing Up” [Psst... Blink-182 đang trưởng thành đấy].Los Angeles Times (bằng tiếng Anh).Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  40. ^“blink-182 Chart History” [Lịch sử xếp hạng của Blink-182].Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  41. ^“Chart History Sum 41” [Lịch sử xếp hạng của Sum 41].Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  42. ^“Official Singles Chart Top 100 07 October 2001 - 13 October 2001”.OfficialCharts.com. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2021.
  43. ^Crane, Matt (23 tháng 5 năm 2014).“29 Songs That Define the Drive-Thru Records Era” [29 bài hát định nghĩa kỷ nguyên của Drive-Thru Records].Alternative Press (bằng tiếng Anh).Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  44. ^“New Found Glory: "We've always done whatever we wanted to do" [New Found Glory: 'Chúng tôi luôn làm bất cứ gì mình muốn'] (bằng tiếng Anh). Upset. 28 tháng 11 năm 2017.Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  45. ^Piers, Ryan (23 tháng 9 năm 2020).“These Are the 25 Most Influential Songs of Pop Punk” [Đây là 25 bài hát nhạc pop punk giàu sức ảnh hưởng nhất].Alternative Press (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  46. ^Laugher, Nick (5 tháng 12 năm 2016).“6 Canadian albums that changed pop punk forever” [Sáu album của Canada làm thay đổi pop punk mãi mãi].Aux TV (bằng tiếng Anh).Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  47. ^Leahey, Andrew.“Artist Biography: Avril Lavigne” [Tiểu sử nghệ sĩ: Avril Lavigne].AllMusic (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.Avril Lavigne became an international star in the 2000s with her punk-influenced pop anthems and anti-starlet image. [Avril Lavigne trở thành một ngôi sao ca nhạc quốc tế vào thập niên 2000 với những bản thánh ca pop chịu ảnh hưởng của punk và hình ảnh phản ngôi sao (anti-starlet).]
  48. ^Moyle, Tracey (9 tháng 7 năm 2020).“10 Influential Pop Punk Bands of the '90s & 2000s” [10 ban nhạc pop punk giàu ảnh hưởng nhất các thập niên 90 và 2000].Punktuation (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.Avril Lavigne burst into charts in the early 2000’ giving teenagers (and beyond) the hero they needed. Her punk driven pop anthems and anti-starlet image was the inspiration ... There is no doubt her strength, passion and incredible talent was and is a powerful influence for so many embracing this Queen of Canadian Pop-Punk. [Avril Lavigne đã gây đột phá trên các bảng xếp hạng âm nhạc vào đầu thập niên 2000, đem cho các thanh thiếu niên (và cả các hậu bối nữa) vị anh hùng mà họ cần. Những bản thánh ca pop chịu ảnh hưởng từ punk và hình ảnh phản sao (anti-starlet) trở thành cảm hứng... Không nghi ngờ gì nữa, sức mạnh, niềm đam mê và tài năng đáng kinh ngạc của cô đã và đang tác động mạnh mẽ với rất nhiều người, mang lại cho cô ca sĩ người Canada biệt hiệu Nữ hoàng pop-punk.]
  49. ^“Avril Lavigne Essentials” [Những bài nhạc của Avril Lavigne cần nghe].Apple Music (bằng tiếng Anh).Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025....the Canadian singer proved herself a crossover star, garnering legions of both mainstream and fringe fans with her Cali punk-indebted sound. [...nữ ca sĩ người Canada tự chứng tỏ cô là một ngôi sao crossover, thu hút đông đảo người hâm mộ từ cả dòng đại chúng và nhóm thiểu số bằng âm thanh chịu ảnh hưởng từ nhạc punk California.]
  50. ^Gamble, Ione.“11 Times Kelly Osbourne's Early 2000 Outfits Were Our Pop Punk Inspiration – Photos”.Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2017.Whether owning the red carpet with then-bestie and reigning queen of pop-punk Avril Lavigne.
  51. ^Lindner, Emily.“Which 2004 Pop Punk Princess Are You?” [Bạn là công chúa pop-punk nào trong năm 2004?].MTV (bằng tiếng Anh).Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.Where have all the pop punk girls gone? Sure, Avril Lavigne still reigns as queen ...
  52. ^Abou-Jaoude, Paula (16 tháng 11 năm 2007).“Uma Avril patricinha”.Capricho Magazine (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2020.I've been listening to a lot of punk rock, so you might notice a certain punk influence on my new record. I like aggressive music, but I like pop rock a lot, which is what I really know how to do.
  53. ^Copsey, Robert (14 tháng 10 năm 2013).“Avril Lavigne interview: 'I'll always be young at heart'.Digital Spy.Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2016.For me, my music's always been heavy pop rock.
  54. ^Collar, Matt.“Busted Biography” [Tiểu sử nhóm Busted].AllMusic (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  55. ^Bootle, Emily (11 tháng 11 năm 2020).“McFly's Young Dumb Thrills: an artificially wholesome school run soundtrack”.New Statesman. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2021.
  56. ^“Room on the 3rd Floor”.OfficialCharts.com. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2021.
  57. ^Loftus, Johnny.“Fall Out Boy”.Allmusic (bằng tiếng Anh).Rovi Corporation. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  58. ^Neustaeter, Brooklyn (8 tháng 8 năm 2018).“Plain White T's 'Hey There Delilah' is Being Turned into a TV Show” [Bài hát 'Hey There Delilah' của Plain White T sắp được chuyển thể thành chương trình truyền hình].Much.com (bằng tiếng Anh).Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  59. ^Mccall, Tris (31 tháng 3 năm 2013).“A Romance to remember: MCR calls it quits after a remarkable 12 years”.nj.com. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2019.
  60. ^Sherman, Maria.“Taking Back Sunday's 'MakeDamnSure' Was Emo-Pop's Weirdest Release”.Fuse. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2019.
  61. ^Perpetua, Matthew (29 tháng 2 năm 2012).“Patrick Stump: I'm a 27-Year-Old Has-Been”.Rolling Stone. New York City.ISSN 0035-791X.
  62. ^Greene, Andy (18 tháng 3 năm 2011).“The 25 Boldest Career Moves in Rock History”.Rolling Stone. New York City (1127).ISSN 0035-791X.
  63. ^ab“20 Neon Pop-Punk Songs You Probably Forgot”.Alternative Press. 9 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  64. ^Hall, Mackenzie (7 tháng 9 năm 2016).“10 Neon Pop-Punk Songs You Can Headbang To”.Alternative Press. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  65. ^Shoemaker, Whitney (18 tháng 6 năm 2020).“10 Neon-Pop Bands Who Need to Make a Comeback”.Alternative Press. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  66. ^“Chart History Metro Station”.Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  67. ^“Official Singles Chart Top 100”.OfficialCharts.com. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  68. ^“Gold & Platinum”.Recording Industry Association of America. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  69. ^“All Time Low Chart History”.Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  70. ^“Chart History The Maine”.Billboard.Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  71. ^Grein, Paul (19 tháng 8 năm 2009).“Week Ending Aug. 16, 2009: King Of Country Boots King Of Pop | Chart Watch - Yahoo! Music”. New.music.yahoo.com. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2012.
  72. ^“Chart History Boys Like Girls”.Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  73. ^Blistein, Jon (15 tháng 1 năm 2015).“Fall Out Boy, Wiz Khalifa Announce Extensive 'Boys of Zummer' Tour”.Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2024.
  74. ^abChad Gilbert (29 tháng 9 năm 2011).“Why Pop-Punk's Not Dead—And Why It Still Matters Today”.Alternative Press. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2013.
  75. ^abcdefgDevon Maloney (24 tháng 4 năm 2013).“What Happened to Emo?” [Chuyện gì đã xảy ra với emo?] (bằng tiếng Anh).MTV News.Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  76. ^Welsh, April (23 tháng 12 năm 2015).“How DIY Culture Is Thriving In The U.K.”.Thefader.com. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2018.
  77. ^“Henry Rollins Talks Trump, Snakes and DIY Punk Resurgence”.Soundsmagazine.co.uk. 16 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2018.
  78. ^Mikael Wood (11 tháng 5 năm 2013).“Fall Out Boy and Paramore: Coming back on top”.Los Angeles Times.Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2013.
  79. ^Ian Cohen (2 tháng 8 năm 2013).“The Forgotten Pop-Punk Records of Summer”.Grantland.com. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2013.
  80. ^abBeech, Dave (23 tháng 5 năm 2016).“Modern Baseball - Holy Ghost”.Clash. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2016.
  81. ^abFelitto, Gabby (16 tháng 4 năm 2021).“TikTok, Travis Barker and the pop punk revival”.The Vermont Cynic. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2021.
  82. ^abBird 2015, tr. 45.
  83. ^“The 50 Best Albums Of 2013 Part Five: 10 – 1 | Photos | Rock Sound”.Rocksound.tv. 6 tháng 12 năm 2013.Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2015.
  84. ^McMahon, James biên tập (13 tháng 9 năm 2014). “Pop-Punk's Not Bread”.Kerrang!. London (1534): 42.ISSN 0262-6624.
  85. ^Bird 2015, tr. 73.
  86. ^Bird 2015, tr. 66.
  87. ^Navarro, Eric (12 tháng 11 năm 2019).“The Joke T-Shirt That Became a Genre-Defining Movement”. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  88. ^Dodderidge, Tim (3 tháng 5 năm 2020).“Pop-Punk May Madness: Previewing the Round of 64”. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  89. ^McGinty, Terry (13 tháng 2 năm 2020).“Handguns When The Light Burns Out (2020)”. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  90. ^“The Gunz Show - Man Overboard, Boston Manor”. 29 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  91. ^Ed Cooper (14 tháng 11 năm 2012).“The Story So Far: Pop-punk is a zombie”.The Independent (bằng tiếng Anh). London.Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2025.
  92. ^abCrane, Matt (5 tháng 5 năm 2014).“Why 5 Seconds Of Summer are more important to pop-punk than you think”.Alternative Press Magazine (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2024.
  93. ^Gibsone, Harriet (10 tháng 7 năm 2014).“5 Seconds of Summer: punks or boyband?”.The Guardian. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2021.
  94. ^Diver, Mike (11 tháng 7 năm 2014).“How Do You Solve A Problem Called 5 Seconds Of Summer?”.Clash. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2021.
  95. ^Hunt, El (12 tháng 8 năm 2014).“Charli XCX: "I Genuinely Don't Give a Fuck".DIY. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2021.
  96. ^Greenwood, Douglas (5 tháng 10 năm 2018).“The Big Read – Halsey: "I can be feminine and delicate but also really fucking dangerous".NME. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2021.
  97. ^Sian Rowe (20 tháng 8 năm 2011).“Say It Ain't So! Club nights reanimate the pop punk sound of Blink-182”.The Guardian. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2013.
  98. ^Bobby Olivier (15 tháng 7 năm 2013).“What Jersey sounds like: The power of pop-punk”.The Star-Ledger. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2013.
  99. ^Spanos, Brittany (6 tháng 7 năm 2016).“Readers' Poll: The 10 Best Pop Punk Albums of All Time”.Rolling Stone.
  100. ^abMench, Chris.“Misery Business: How Gen-Z Rappers Are Reinventing The Emo & Pop Punk Influences Of Their Childhood”. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2021.
  101. ^abEloise, Marianne (5 tháng 9 năm 2017).“From Lil Peep To Paramore, Emo And Rap Have Been Related For Years”.Kerrang!. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2021.
  102. ^Lewczyk, Maria.“Adam McIlwee Talks Comics, Conspiracies, and the Wicca Phase Springs Eternal Mythology”. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2021.
  103. ^Goldfine, Jael (5 tháng 9 năm 2018).“Kim Petras and Lil Aaron Go Full Mall-Goth”.Paper. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2021.
  104. ^Given, Kellie (14 tháng 6 năm 2020).“YUNGBLUD: Pop-Punk Misfit Ready To Change The World”. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2021.
  105. ^“Gold & Platinum”.Recording Industry Association of America. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2021.
  106. ^“Halsey chart history”.Billboard.
  107. ^Jamieson, Brii.“Watch Yungblud, Halsey + Travis Barker Perform '11 Minutes' Live at the IHeart Awards”.RockSound.Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2021.
  108. ^abFEIGIN, SARA (tháng 10 năm 2020).“How Machine Gun Kelly's latest album catapulted him to pop punk fame”.Evening Standard. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2021.
  109. ^“Gold & Platinum”.Recording Industry Association of America.
  110. ^Fulton, Nick (12 tháng 7 năm 2019).“gothboiclique rapper cold hart goes pop punk”.i-D. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2021.
  111. ^Gendron, Will.“Lil Tracy drops "Beautiful Nightmare" ahead of Anarchy”. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2021.
  112. ^Mandel, Leah (8 tháng 10 năm 2019).“Everything old is new: Unpacking the pop punk revival”.Mic. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2021.
  113. ^Mortensa, Mala (5 tháng 11 năm 2020).“10 Rising UK-Based Pop-Punk Bands You Need to Hear”.Alternative Press. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  114. ^“Machine Gun Kelly Earns First No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'Tickets to My Downfall'.Billboard (bằng tiếng Anh). 4 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2020.
  115. ^Richardson, Jake (27 tháng 11 năm 2020).“Is pop-punk really dead?”.Kerrang!. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2021.
  116. ^Weiss, Jamie (2 tháng 2 năm 2021).“Rapper Machine Gun Kelly Is the Men's Fashion Icon We Need in 2021”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2021.
  117. ^Williams, Aaron (29 tháng 9 năm 2020).“MGK Defends His New Album's Shift Away From Rap To Pop-Punk”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2021.
  118. ^Bulmer, Eloise (21 tháng 1 năm 2021).“Why is pop-punk so big on TikTok?”.Kerrang!. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2021.
  119. ^Shafer, Ellise (30 tháng 12 năm 2020).“Meet the Creators Turning TikTok Fame Into Record Deals”.Variety. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2021.
  120. ^Halperin, Shirley (21 tháng 1 năm 2021).“Adam Mersel Brings Immersive Records Label to Interscope Geffen A&M; TikTok Star Lilhuddy Is First Signing (Exclusive)”.Variety. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.
  121. ^Broderick, Ryan (2 tháng 3 năm 2021).“TikTok's emo revival emerged from the creative chaos of quarantine”.Polygon. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021.
  122. ^Shipley, Al (30 tháng 11 năm 2020).“Pop-Punk and Hip-Hop: 2020's Dynamic Duo”.Spin. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2021.
  123. ^Chandler, Rachel (7 tháng 5 năm 2021).“KennnyHoopla Drops Video for New Song 'hollywood sucks//': Watch and Read the Q&A”.Our Culture Mag. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2021.
  124. ^“Meet KennyHoopla, the leader of pop punk's new generation”.Kerrang!. 9 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2021.
  125. ^McIntyre, Hugh.“Olivia Rodrigo Collects Her Second Career No. 1 Hit In The U.K. With Pop-Punk Anthem 'Good 4 U'.Forbes. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.
  126. ^Molanphy, Chris (29 tháng 5 năm 2021).“Why Olivia Rodrigo's "Good 4 U" Is Rock's First Hot 100 No. 1 in Years”.Slate. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.
  127. ^Jefferson, J'na.“From MGK to Olivia Rodrigo, pop-punk's mainstream comeback is meeting America in the middle”.USA Today. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2021.
  128. ^Shutler, Ali (16 tháng 6 năm 2021).“Pop-punk's not dead! Investigating 2021's biggest genre revival”.The Face. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2021.
  129. ^Raza-Sheikh, Zoya (20 tháng 4 năm 2021).'It's the beginning of a new era': the POC punk bands reclaiming pop-punk”.The Independent. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2021.
  130. ^Shutler, Ali (25 tháng 2 năm 2021).“10 bands reinventing pop-punk for 2021”.Louder Sound. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2021.
  131. ^Despres, Tricia (5 tháng 12 năm 2022).“Cassadee Pope Says She's 'Moving Away from the Country Space' with Levi Hummon Collaboration 'RSVP'.People. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2023.
  132. ^Price, Jason (4 tháng 4 năm 2023).“Cassadee Pope Returns To Her Pop-Punk Roots With "People That I Love Leave" Single”.Icon vs. Icon. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2023.
  133. ^“Olivia Rodrigo Chart History (Hot Rock & Alternative Songs)”.
  134. ^Lynch, Jessica (27 tháng 10 năm 2023).“Rosé Makes ARIA History: 'APT.' Hits No. 1, a First for Solo Female K-pop”.Rolling Stone Australia. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2024.
  135. ^Denis, Kyle; Lipshutz, Jason; Unterberger, Andrew (23 tháng 10 năm 2024).“Everyone's Coming to ROSÉ & Bruno Mars' 'APT.'.Billboard.Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2024.
  136. ^“Emo-Pop”.AllMusic (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
  137. ^abEdge, Citizen.“What The Hell Is: Easycore”.102.1 the Edge (bằng tiếng Anh).Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2017.
  138. ^“omaha easycore band everbloom releases new self-produced single and video”.The Daily Nebraskan. 9 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  139. ^Shoemaker, Whitney (18 tháng 6 năm 2020).“10 neon-pop bands who need to make a comeback” – quaAlternative Press.
  140. ^abSharp, Tyler (17 tháng 5 năm 2016).“12 neon pop-punk songs you've already forgotten about”.Alternative Press. tr. 1. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2016.
  141. ^Chatterjee, Kika (9 tháng 9 năm 2017).“20 neon pop-punk songs you probably forgot”.Alternative Press. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2017.
  142. ^Sharp, Tyler (17 tháng 5 năm 2016).“12 neon pop-punk songs you've already forgotten about”.Alternative Press. tr. 2. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2016.
  143. ^Ellis, Iain (17 tháng 10 năm 2022).“Who Put the Pop in Gen Z's Pop Punk?”.PopMatters. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2022.
  144. ^Gregory, James (19 tháng 2 năm 2006).“Buzzcocks”.Pitchfork. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  145. ^abStroia, Mihaela (5 tháng 10 năm 2005).“Green Day Still A Punk Band”. Softpedia.Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2013.
  146. ^Melia, Daniel.“John Lydon Calls Green Day "Plonk" Not "Punk".Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2006.
  147. ^Sinclair, Tom (3 tháng 3 năm 2000).“Rotten Egged”.Entertainment Weekly.New York City (528).ISSN 1049-0434.Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2020.
  148. ^“Naughty By Nature”.Spin.15: 118. tháng 11 năm 1999.ISSN 0886-3032. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2020.
  149. ^Bonyata, Phil (25 tháng 11 năm 2004).“Deryck Whibley of Sum 41 Interview - One on One”.Concert Livewire. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2020.
  150. ^Harkness, Geoff (9 tháng 6 năm 2005).“Pop-Punk and Then Sum”.Phoenix New Times. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2020.
  151. ^Terich, Jeff (23 tháng 10 năm 2017).“Treble's Top 100 Punk Albums” [Top 100 album nhạc punk hay nhất của Treble] (bằng tiếng Anh). Treblezine. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.

Tài liệu sử dụng

[sửa |sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Tạp chí

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Eliezer, Christie (28 tháng 9 năm 1996). “Trying to Take Over the World”.Billboard.ISSN 0006-2510.
  • Eliezer, Christie (December 27, 1997 – January 3, 1998). “The Year in Australia: Parallel Worlds and Artistic Angles”.Billboard.ISSN 0006-2510.
  • Sheffield, Rob (tháng 6 năm 2022). “Pop punk's long, weird legacy”.Rolling Stone. New York City (1364): 18.ISSN 0035-791X.

Bài viết trên web

[sửa |sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về:
Tiền thân
Tiểu thể loại và
thể loại hỗn hợp
Thể loại liên quan
Theo quốc gia
Con người và nhóm nhạc
Bài viết liên quan
Theo thể loại
Theo khu vực/quốc gia
Châu Á
Châu Âu
Châu Mỹ
Châu Phi
Toàn cầu
Những chủ đề khác
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Pop-punk&oldid=72280543
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp