Polynésie thuộc Pháp (tiếng Pháp:Polynésie française,phát âm tiếng Pháp:[pɔlinezifʁɑ̃sɛz], phiên âm như"Pô-li-nê-zi";tiếng Tahiti:Pōrīnetia Farāni) là mộtxứ hải ngoại (pays d'outre-mer) củaPháp. Lãnh thổ này được tạo thành từ một vài nhóm đảo của quần đảo lớnPolynésie, hòn đảo nổi tiếng nhất làTahiti thuộc nhómquần đảo Société, đây cũng là đảo đông dân nhất và có thủ phủ của lãnh thổ-Papeete. Mặc dù không phải là một phần đầy đủ của lãnh thổ,đảo Clipperton được quản lý từ Polynésie thuộc Pháp cho đến năm 2007.
Các nhóm đảo hình thành nên Polynésie thuộc Pháp chưa được chính thức thống nhất cho đến khi thành lập vùngbảo hộ thuộc Pháp vào năm 1889.Người Polynésie bản địa là những người định cư đầu tiên trên các hòn đảo này, tạiquần đảo Marquises vào năm 300 SCN và tạiquần đảo Société vào năm 800 SCN. Những người Polynésie được tổ chức thành các cộng đồng lỏng lẻo cótù trưởng lãnh đạo.[4]
VuaPōmare II của Tahiti đã buộc phải chạy trốn đếnMo'orea vào năm 1803; ông và các thần dân của mình đã cải đạo sang Tin Lành vào năm 1812. Những người truyền đạo Công giáo Pháp đã đến Tahiti vào năm 1834; việc trục xuất họ vào năm 1836 đã khiến Pháp cử một tàu chiến đến vào năm 1838. Năm 1842, Tahiti vàTahuata được tuyên bố là mộtvùng bảo hộ của Pháp, nhằm để cho phép những nhà truyền giáo Công giáo làm việc mà không bị ảnh hưởng. Thủ phủPapeetē được thành lập vào năm 1843. Năm 1880, người Pháp sáp nhập Tahiti, đổi vị thế của đảo từ vùng bảo hộ thànhthuộc địa.[6]
Vào thập niên 1880, Pháp tuyên bố chủ quyền vớiquần đảo Tuamotu, nơi này trước đây thuộc vềVương triều Pomare. Sau khi tuyên bố bảo hộ đối với Tahuata vào năm 1842, người Pháp coi toàn bộquần đảo Marquises là của mình. Năm 1885, Pháp đã bổ nhiệm một thống sứ và một đại hội đồng, do đó đã thiết lập một cơ cấu chính quyền của một thuộc địa. Các đảoRimatara vàRūrutu đã vận động không thành công để nằm dưới quyền bảo hộ của Anh vào năm 1888, do đó đến năm 1889 hai đảo đã bị Pháp sáp nhập. Tem bưu chính lần đầu tiên được phát hành ở thuộc địa vào năm 1892. Tên gọi chính thức đầu tiên của thuộc địa làÉtablissements de l'Océanie (Các thuộc địa tại châu Đại Dương); năm 1903 đại hội đồng đã chuyển thành một hội đồng cố vấn và tên của thuộc địa được đổi thànhÉtablissements Français de l'Océanie (Các thuộc địa của Pháp tại châu Đại Dương).[7]
Năm 1940, chính quyền Polynésie thuộc Pháp đã công nhậnLực lượng Pháp tự do và nhiều người Polynésie đã phục vụ cho Lực lượng này trongChiến tranh thế giới thứ 2. Không có thời gian cho người Pháp và người Polynésie, nội cácKonoe Fumimaro củaĐế quốc Nhật Bản vào ngày 16 tháng 9 năm 1940 đã tính cả Polynésie thuộc Pháp trong số các lãnh thổ sẽ trở thành vùng đất sở hữu của Nhật Bản thời hậu chiến[8] – mặc dù vậy, trênmặt trận Thái Bình Dương, Nhật Bản đã không thể khởi động một cuộc xâm lược trên thực tế vào các đảo của Pháp.
Năm 1946, người Polynésie đã được cấp quyền công dân Pháp và vị thế các hòn đảo được chuyển thành mộtcộng đồng hải ngoại; năm 1957, tên của lãnh thổ được đổi thànhPolynésie Française (Polynésie thuộc Pháp). Năm 1962, bãi đất tiến hành thử hạt nhân trên mặt đất đầu tiên của Pháp đã không còn sử dụng được doAlgeria độc lập vàrạn san hô vòng Maruroa tại quần đảo Tuamotu đã được lựa chọn làm địa điểm tiến hành các vụ thử nghiệm mới; các vụ thử nghiệm đã được tiến hành dưới lòng đất sau năm 1974.[9] Năm 1977, Polynésie thuộc Pháp đã được trao quyền tự trị nội địa một phần; năm 1984, quyền tự trị đã được mở rộng. Polynésie thuộc Pháp trở thành mộtcộng đồng hải ngoại đầy đủ trong lòng nước Pháp vào năm 2004.[5][10]
Tháng 12 năm 1995, Pháp đã khuấy động các cuộc biểu tình rộng khắp khi nối lại việc thử nghiệm hạt nhân ở rạn san hô vòngFangataufa sau một lệnh tạm ngừng ba năm. Vụ thử nghiệm cuối cùng được tiến hành vào ngày 27 tháng 1 năm 1996. Ngày 29 tháng 1 năm 1996, Pháp tuyên bố rằng họ sẽ tham giaHiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện, và không còn thử nghiệm vũ khí hạt nhân.[11]
Từ năm 1946 đến 2003, Polynésie thuộc Pháp có tình trạng là mộtlãnh thổ hải ngoại (tiếng Pháp:territoire d'outre-mer, hayTOM). Năm 2003, Polynésie thuộc Pháp trở thành mộtcộng đồng hải ngoại (tiếng Pháp:collectivité d'outre-mer, hay COM). Điều luật ban hành vào ngày 27 tháng 2 năm 2004 đã trao cho Polynésie thuộc Pháp địa vị đặc biệtxứ hải ngoại bên trong nước Cộng hòa (tiếng Pháp:pays d'outre-mer au sein de la République, hay POM), song không có sự sửa đổi về tình trạng của nó trong luật pháp.
Các hòn đảo của Polynésie thuộc Pháp có tổng diện tích là 4.167 km² (1.622 mi²), nằm rải rác trên vùng biển rộng 2.500.000 km² (965,255 mi²). Polynésie thuộc Pháp có khoảng 130 hòn đảo.[12] Đỉnh cao nhất lànúi Orohena tại Tahiti.
Polynésie thuộc Pháp được hợp thành từ sáu nhóm đảo. Đảo lớn nhất và đông dân cư nhất làTahiti, tại quần đảo Société,
GDP danh nghĩa của Polynésie thuộc Pháp vào năm 2006 là 5,65 triệu Đô la Mỹ, và là nền kinh tế lớn thứ năm ở châu Đại Dương sau Úc, New Zealand, Hawaii, vàNouvelle-Calédonie.[3] GDP danh nghĩa trên đầu người 21.999 Đô la Mỹ vào năm 2006, thấp hơn Hawai'i, Úc, New Zealand, và Nouvelle-Calédonie, song cao hơn tất cả các đảo quốc độc lập khác tại châu Đại Dương.[3]
Polynésie thuộc Pháp có một nền kinh tế tương đối phát triển, song phục thuộc vào hàng hóa nhập khẩu, du lịch và hỗ trợ tài chính từMẫu quốc Pháp. Các cơ sở cho du lịch phát triển tốt và có sẵn trên các đảo chính. Ngoài ra, do người ta dã khám phá ra quảnhàu từ những hòn đảo này có thể sử dụng với mục đích y tế, người dân có thể tìm được công việc liên quan đến ngành nông nghiệp.
Đơn vị tiền tệ của Polynésie thuộc Pháp làFranc CFP.
Năm 2008, Polynésie thuộc Pháp nhập khẩu lượng hàng hóa trị giá 2,2 tỷ đô la Mỹ và xuất khẩu một lượng hàng hóa trị giá 0,2 tỷ đô la Mỹ.[13] Mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Polynésie thuộc Pháp là ngọc trai đen Tahiti nổi tiếng, chiếm tới 55% giá trị xuất khẩu trong năm 2008.[13]
Tổng dân số Polynésie thuộc Pháp vào ngày 1 tháng 1 năm 2010 là 267.000 người,[14] cao hơn so với 259.596 theo đièu tra tháng 8 năm 2007.[15] Trong cuộc điều tra năm 2007, 68,6% cư dân của Polynésie thuộc Pháp sống trên hòn đảoTahiti.[15] Khu vực đô thịPapeetē, thành phố thủ phủ, có 131.695 cư dân theo điều tra dân số năm 2007.
Theo điều tra dân số năm 2007, 87,3% cư dân sinh sống tại Polynésie thuộc Pháp được sinh ra bên ngoài lãnh thổ này, 9,3% sinh ra tạiMẫu quốc Pháp, 1,4% sinh ra tạicác khu vực hải ngoại khác, và 2,0% sinh ra tại ngoại quốc.[16] Theo điều tra dân số năm 1988, cuộc điều tra dân số cuối cùng có câu hỏi về dân tộc, 66,5% cư dân là người Polynésie thuần chủng, 7,1% là người Polynésie có pha trộn, 11,9% là người Âu (chủ yếu làngười Pháp), 9,3% có nguồn gốc pha trộn Polynésie và Âu, gọi làDemis (nghĩa là "nửa"), và 4,7% cư dân là người Đông Á (chủ yếu làngười Hoa).[17] Năm 2015, thành phần dân tộc ước tính là 78% ngườiPolynésie bản địa, 12% người Hoa, 6% người Polynésie gốc Pháp và 4% người Pháp.
Người Pháp, người Demis và người Hoa về cơ bản tập trung tại đảoTahiti, đặc biệt là tại khu vực đô thịPapeetē, nơi họ có tỷ lệ lớn hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình tại lãnh thổ.[17] Mặc dù có một lịch sử lâu dài của quá trình hỗn huyết dân tộc, song trong những năm gần đây đã gia tăng các căng thẳng sắc tộc, các chính trị gia có các phát biểu mang tínhbài ngoại và thổi bùng ngọn lửa dân tộc chủ nghĩa.[18][19]
Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức duy nhất tại Polynésie thuộc Pháp.[23] Mộtluật tổ chức vào 12 tháng 4 năm 1996 đã nói rõ rằng "Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức, tiếng Tahiti và các ngôn ngữ Polynésie khác có thể được sử dụng." Theo cuộc điều tra dân số năm 2007, song số những người bằng hoặc trên 15, 68,5% bày tỏ rằng họ hay sử dụng tiếng Pháp nhất tại nhà, 29,9% bày tỏ rằng thứ tiếng họ nói nhiều nhất tại nhà là mộtngôn ngữ Polynésie (bốn phần năm trong đó làtiếng Tahiti), 1,0% nói rằng đó là tiếng Trung Quốc (một nửa trong đó làtiếng Khách Gia), và 0,6% là các ngôn ngữ khác.[24]
Cũng trong cuộc điều tra dân số đó, 94,7% số người 15 tuổi hoặc hơn bày tỏ rằng họ có thể nói, đọc và viết tiếng Pháp, chỉ có 2,0% bảy tỏ rằng họ không có kiến thức về tiếng Pháp.[24] 74,6% số người 15 hoặc lớn hơn bày tỏ rằng họ có kiến thức ở một mức độ nào đó về một trong các ngôn ngữ Polynésie, trong khi 13,6% bảu tỏ rằng họ không có kiến thức về bất kỳ một ngôn ngữ Polynésie nào.[24]
Có 53 sân bay tại Polynésie thuộc Pháp; trong đó 46 có đường băng được lát.[28]Sân bay quốc tế Faaa là sân bay quốc tế duy nhất tại Polynésie thuộc Pháp. Mỗi hòn đảo có sân bay của mình để có thể tiến hành các chuyến bay tới các hòn đảo khác.Air Tahiti là hãng hàng không chính, thực hiện các chuyến bay khắp các đảo.
Không hào nhoáng và tráng lệ với những công trình đồ sộ, nổi bật, nơi đây chỉ là những túp lều tranh đơn sơ nhưng lại cuốn hút bao lòng người. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, giữa cuộc sống thực tại và tương lai, một Bora Bora năng động, hay Huahine truyền thống hoặc chỉ là mê hoặc của lứa đôi ở Moorea...Bora Bora cách Việt Nam 12.000 km theo đường chim bay. Là một địa điểm du lịch quốc tế thu hút nhiều du khách.
^Người Nhật tuyên bố chủ quyền với các hòn đảo của Pháp tại Thái Bình Dương, cùng với nhiều lãnh thổ rộng lớn khác, xuất hiện trong "Sphere of survival for the Establishment of a New Order in Greater East Asia by Imperial Japan" vào ngày 16 tháng 9 năm 1940, do Bộ Ngoại giao Nhật Bản phát hành vào năm 1955 và là một phần của hai quyển "Chronology and major documents of Diplomacy of Japan 1840–1945" – trích dẫn ở đây lấy từ "Interview with Tetsuzo Fuwa: Japan's War: History of Expansionism", Japan Press Service, tháng 7 năm 2007
^abc(bằng tiếng Pháp)Institut Statistique de Polynésie Française (ISPF)."Population légale au 20 août 2007".Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2009.
Pollock, Nancy J. (1988).French Polynesia: A Book of Selected Readings.Ron Crocombe, eds. Suva, Fiji: Institute of Pacific Studies of the University of the South Pacific.ISBN982-02-0032-6.
Aldrich, Robert (1990).The French Presence in the South Pacific, 1842–1940. Sydney.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: địa điểm thiếu nhà xuất bản (liên kết)