Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Dương cầm

Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từPiano)

Đối với nhạc sĩ cùng tên, xemDương Cầm.
Đối với nhạc cụ Trung Quốc, xemDương cầm (nhạc cụ Trung Quốc).
Dương cầm
Piano cánh (bên trái) và piano tủ (bên phải)
Nhạc cụ dùng phiếm bấm
Phân loại của Hornbostel–Sachs314.122-4-8
(Simplechordophone withkeyboard sounded by hammers)
Phát minh bởiBartolomeo Cristofori
Phát triển bởiĐầuthế kỉ 18
Âm vực
Henriëtte Ronner-Knip (1897)

Piano haydương cầm là mộtnhạc cụ có bàn phím dây trong đó các dây được gõ bởi các búa gỗ được bao phủ bởi một vật liệu mềm hơn (các búa gỗ hiện đại được phủ bởi len dầy, một số đàn piano thời kì đầu dùng lông). Người ta chơi dương cầm thông qua mộtbàn phím, trong đó các phím được sắp thành hàng ngang (các đòn bẩy nhỏ), khi đó người chơi đàn nhấn xuống hoặc đánh với lực của các ngón của cả hai tay để làm cho các búa đập vào các dây đàn. Đàn piano được phát minh tạiÝ bởiBartolomeo Cristofori khoảng năm 1700.

Tên gọi và từ nguyên

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngày trước, Việt Nam dùng từ "Tây Dương" - ý nghĩa "biển phía Tây" để chỉ các nước Tây Âu. Khi Piano du nhập từphương Tây vào Việt Nam nên ban đầu được gọi là "Tây Dương cầm", sau rút gọn thành "dương cầm"."Cương cầm" (phồn thể: 鋼琴 /giản thể: 钢琴 /bính âm: gāng qín) - tên gọi piano ởTrung Quốc. Ngoài ra, một từHán Việt cũng được đọc làDương cầm nhưng nó ám chỉ đếnđàn tam thập lục của Trung Quốc, và loại đàn này không liên quan gì tới piano.

Mô tả

[sửa |sửa mã nguồn]

Lịch sử

[sửa |sửa mã nguồn]

Những chiếc dương cầm cổ điển hay còn gọi thông thường là piano cổ điển ngày nay được xây dựng trực tiếp từ những chiếc đànclavico clavecin (harpsichord) từ khoảngthế kỷ 16 và 17. Khoảng năm1700,Bartolomeo Cristofori đã thử tạo ra một chiếc đàn harpsichord mà có thể biểu hiệnâm nhạc một cách truyền cảm hơn, và đã tạo ra một bộ máy mà cácbúa gõ vào các dây, khác với đànharpsichord là dùng quill (dụng cụ gảy đàn bằng ống lông) để gảy. Một đặc trưng lớn khác ở đàn piano thời đầu của ông là cơ cấu búa thoát, nó khiến cho búa tách rời khỏi phím một khi các nốt được đánh lên, và rồi chơi lại ở mộtvận tốc khác hẳn, làm thay đổi hẳn sự biểu cảm của chính các nốt phím đó. Những chiếc piano đầu tiên của Critofori vẫn còn chứa đựng rất nhiều nét giống với thiết kế của một cây đàn clavecin, cònâm thanh thì phần nhiều vẫn như thế, ngoại trừ việc là người chơi bấy giờ có thể chơinhạc bằng việc nhấn vào bàn phím.

Các thiết kế của Cristofori không được biết đến mãi cho đến những năm cuối của 1700, khi các bản thiết kế piano của ông được xuất bản. Các nhà sản xuất nhưGottfried Silbermann người Đức và học trò của ông làChristian FriedericiJohannes Zumpe bắt đầu phát triển piano với vai trò là một nhạc cụ độc lập với clavecin. Mặc dù lúc đầu không được ấn tượng cho lắm nhưng đượcJ.S.Bach ủng hộ năm1747. Âm nhạc bắt đầu được viết riêng cho piano từ năm 1732 và kỷ nguyên của nó với vai trò một nhạc cụ dành cho biểu diễn bắt đầu.

Sự phát triển của piano cổ điển sau năm 1750 diễn ra theo hai hướng cơ bản. ỞAnh, đàn piano được thiết kế nặng hơn và phức tạp hơn. ỞĐức, một loại khác nhẹ hơn và cấu trúc đơn giản hơn được biết đến như một cây đàn xứViên, được nhà sản xuấtJohann Andreas Stein xây dựng, đó chính là những cây đàn màHaydn,MozartBeethoven đã chơi và soạn nhạc trên đó.

Khi piano cổ điển ngày càng phát triển, nó dần trở thành mộtnhạc cụ độc lập và cần làm cho âm thanh to hơn. Để tăng âm, các dây phải dày hơn và bộ khung phải khoẻ hơn nữa, như thế có thể đạt được một áp lực lớn hơn. Bộ khung của đàn piano thông thường được làm bằnggỗ, trở nên dày hơn và nặng hơn và thanh chằng chéo giúp nó kiên cố hơn. Đến năm 1820,Thomas Allen thậm chí vẫn còn dùng các ống kim loại để giữ căng các dây, và một nhà sản xuất thành côngngười AnhJohn Broadwood bắt đầu dùng các tấm bằngsắt để giữ cho chúng được căng lên, mà giờ đây các đĩa đó phần lớn được làm bằngkim loại hơn là bằng gỗ. Năm 1825,Alpheus Babcock sáng chế ra khung bằnggang và sau đó năm 1843, mộtngười MỹJonas Chickering bắt đầu làm piano với một đĩa tròn vành, một nét đặc trưng của các piano cánh ngày nay. Một sự phát triển đáng chú ý khác là việc chằng các dây, được phát triển bởiHenri Pape vào năm 1828 vàSteinway cấp bằng sáng chế năm 1859, ông đã đặt các dây bass dài hơn lên cao hơn các dây kim, giúp cho các dây dài hơn ở trong hộp ngắn hơn và đặt các dây bass ở giữa qua một bảng cộng hưởng(soundboard) để có một sự hồi âm tốt hơn.

Piano cổ điển được bắt đầu sản xuất hàng loạt vào những năm 1800, cùng với sự thành lập của các công ty lớn chuyên sản xuất đàn Piano cổ điển, những công ty này hoàn toàn phát triển từ nền tảng của mẫu đàn cánh đó tới năm 1821.

Đặc điểm và cấu tạo

[sửa |sửa mã nguồn]

Đàn dương cầm cổ điển tạo ra âm thanh bằng cách gõ vào các sợi dâythép bằng những chiếc búa bọc nỉ bật lên ngay tức thì để chodây đàn piano tiếp tục ngân vang ở tần số cộng hưởng của nó. Những rung động này được truyền qua các cầu đến bảng cộng hưởng (soundboard), bộ phận khuếch đại chúng.

Ứng dụng

[sửa |sửa mã nguồn]

Đàn dương cầm có nhiều ứng dụng thực tế trong biểu diễn và sáng tácâm nhạc, trong nhiều thể loại âm nhạc:nhạc cổ điểnnhạc hiện đại.

Nhạc jazz

[sửa |sửa mã nguồn]

Jazz là một thể loại âm nhạc bắt nguồn từ cộng đồng người châu Phi ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Jazz nổi lên ở nhiều nơi trên nước Mỹ với phong cách âm nhạc độc lập phổ biến vào thời đó; liên kết bằng kết nối chung giữa âm nhạc Mỹ gốc châu Âu và âm nhạc Mỹ gốc Phi với một xu hướng thiên về biểu diễn

Piano được dùng phổ biến trong nhạcjazz, nó thường chơisolo như một nhạc cụ độc lập trên nền nhạc, hoặc cũng có thể đệm cho các nhạc cụ khác hoặc cho người hát.

Nhạc cổ điển

[sửa |sửa mã nguồn]

Nhạc cổ điển là dòng nhạc nghệ thuật được sản xuất, hoặc được bắt nguồn từ truyền thống tế lễ ở phương Tây bao gồm cả nhạc tôn giáo và nhạc thế tục, một khoảng thời gian rộng lớn từ khoảng thế kỷ thứ XI đến thời điểm hiện tại.

Có nhiều thể loạinhạc cổ điển được soạn riêng cho đàn dương cầm:sonata cho piano,concerto cho piano và dàn nhạc,mazurka,polonaise,rondo,nocturne...

Các thể loại nhạc khác

[sửa |sửa mã nguồn]

Piano được dùng phổ biến trong tất cả các thể loại nhạc khác với vai trò là nhạc cụ đệm cho người hát hoặc các loại nhạc cụ khác, hoặc là nhạc cụ độc tấu các bản nhạc không lời được chuyển soạn cho piano.

Tiền thân

[sửa |sửa mã nguồn]

Harpsichord

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Harpsichord

Harpsichord là một nhạc cụ xuất hiện từthế kỉ 15. Đó là một nhạc cụ có phím và dây, trong đó dây được gẩy bằng một mẩu lông quạ gắn ở cuối phím. Harpsichord có nhiều kiểu hình dáng và có thể có dạng giống như một chiếcdương cầm lớn. Mặc dù harpsichord rất phổ biến trong vài thế kỉ và được nhiều nhà soạn nhạc lừng danh nhưJ. S. Bach sử dụng, nó có một nhược điểm lớn: không có khả năng phát tiếng to nhỏ theo độ mạnh nhẹ khi bấm của người chơi.

Clavichord

[sửa |sửa mã nguồn]

Clavichord là một trong những nhạc cụ phím đơn giản và nhỏ nhất mà âm thanh được phát ra bằng dây. Dựa trên các hình vẽ và ghi ghép, người ta cho rằng clavichord, với hình dạng giống như một số mẫu hiện còn tồn tại, đã xuất hiện từ những năm đầu thế kỉ 15. Clavichord được sử dụng rộng rãi ở Tây Âu vào thờiPhục hưng và ởĐức cho đến đầuthế kỉ 19, nhưng chỉ được coi như một nhạc cụ để học và chơi chứ ít khi dùng để sáng tác. Khi người chơi bấm vào phím, một mảnh kim loại bật lên và đập vào dây đàn. Mảnh kim loại còn có tác dụng như một thanh chặn dây, và nốt nhạc được ngân lên cho đến khiphím đàn được thả ra. Hệ thống đơn giản này giúp cho người đọc kiểm soát đượccường độtrường độ của âm thanh.

Pianoforte

[sửa |sửa mã nguồn]

Năm1709, người thợ chế tạo harpsichord ngườiÝBartolomeo Cristofori chế tạo chiếc dương cầm đầu tiên trên thế giới gọi làpiano et forte (nhẹ và mạnh). Không lâu sau, những người thợ khác tạo ra những chiếc pianoforte với búa. Tiếp đó, pianoforte thay thế harpsichord và clavichord bởi nó có những ưu điểm mà các nhạc cụ phím khác không có. Fortepiano là một nhạc cụ dây-búa có khả năng tạo ra những sự thay đổi âm thanh nhỏ thông qua sự bấm phím mạnh hay nhẹ của người chơi. Đến khoảng năm1850, từ "fortepiano" được thay thế bởi từ "piano". Vào những năm đầuthế kỉ 18, dương cầm không mấy thu hút được sự chú ý và ủng hộ. J.S. Bach có lẽ thích clavichord, nhạc cụ mà ông đã quen chơi và cũng là nhạc cụ chơi dễ hơn.

Dương cầm vuông

[sửa |sửa mã nguồn]

Vào khoảng1760,Johannes Zumpe chế tạo chiếc dương cầm vuông kiểu Anh lần đầu tiên tạiLondon (sau được biết đến với cái tên "piano vuông lớn"). Sau đó không lâu,Broadwood ở London vàErardPháp cũng chế tạo ra những chiếc tương tự.Johann BehrendPhiladelphia trưng bày chiếc đàn vuông của ông vào năm1775. Những chiếc đàn vuông này có tiếng hơi yếu yếu và không thể so sánh được với chiếc pianoforte lớn (kiểu có nắp rộng bản). Thêm vào đó, những chiếc dương cầm vuông không có cơ cấu nhấc và búa của chúng không thể gõ vào dây một cách liên tục. Ngoài ra, búa đàn, làm bằng những mảnh gỗ nhỏ với một lớp da mỏng, đều cùng một kích thước dù chúng phải gõ lên những dây bass lớn nhất. Rất nhiều công ty sản xuất dương cầm hàng đầu của Mĩ chế tạo những chiếc dương cầm vuông lớn được đẽo nhằm mục đích trang trí trong suốtthập niên 1800, bao gồmChickering,Knabe,SteinwayMathushek. Mặc dù trong suốt 75 năm sau đã có một số thay đổi về chế tạo đàn dương cầm, chiếc dương cầm vuông tiếp tục thống lĩnh thị trường, đặc biệt ở Mĩ.

Một sự tụt hậu trong những nhạc cụ phím đầu tiên, bao gồm cả những chiếc dương cầm vuông đầu tiên, chính là sự yếu ớt trong âm thanh. Yêu cầu phải có những âm thanh mạnh mẽ hơn chỉ có thể được thỏa mãn với việc sử dụng những dây nặng hơn và một khung âm lớn hơn. Cách giải quyết này rất hạn chế bởi khung gỗ không thể chịu đựng nổi sức căng của những dây nặng đó. Vào khoảng năm1825,Alpheus Babcock đã chế tạo một khung sắt hoàn chỉnh. Tuy nhiên, phải đến1837Jonas Chickering mới hoàn chỉnh cấu tạo và nhận được bằng sáng chế không lâu sau đó. Mặc dù vẫn có những tranh cãi rằng khung sắt ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng âm thanh, cuối cùng khung sắt vẫn được ủng hộ. Vào năm1855, Steinway trưng bày chiếc dương cầm vuông theo kiểu dây đan tại hội chợ thế giới ởThành phố New York và chứng minh rằng nó là một đối thủ đáng gờm của về chế tạo dương cầm của Chickering. Thiết kế mới về cách mắc dây này đã tạo ra một sự thúc đẩy mạnh mẽ cho sự nghiên cứu chế tạo dương cầm trong tương lai.

Các kiểu đàn hiện tại

[sửa |sửa mã nguồn]
Chi tiết bên trong của một cây đại dương cầm. Những mày đàn nằm giữa ngựa đàn và điểm móc cho phép tạo thêm âm bội phụ, làm giàu cho những nốt cao.

Hiện nay, trên thị trường có 3 kiểu đàn dương cầm: dương cầm lớn, dương cầm đứng và kiểu lai giữa hai loại trên.

Những chiếc đàn đứng, dù chất lượng có cao đến mấy, không được những người chơi piano coi là nhạc cụ có chất lượng thuộc hàng chuyên nghiệp. Nhiều yếu tố dù đã được nghiên cứu hay chỉ là do sở thích là lý do cho sự đánh giá này. Một mục tiêu của các hãng sản xuất đàn đứng là mang lại chất lượng âm thanh giống như của đàn lớn cho những chiếc đàn đứng.

Hình dáng của chiếc đàn đứng, ban đầu được chế tạo để dùng trong nhà, tạo ra một cảm giác thiếu dễ chịu theo một hướng. Đồng thời cũng rất khó để người chơi đàn quan sát nhạc công, để khán giả nhìn thấy người chơi và để âm thanh tỏa ra một cách truyền cảm cho khán giả.

Những chiếc đàn lớn có một hệ thống phím tận dụng trọng lượng của phím khiến cho phím trở về vị trí ban đầu. Đàn đứng lại sử dụnglò xo. Hệ thống phím là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến âm thanh từ đàn piano và ảnh hưởng đến đánh giá của người chơi đàn về chất lượng âm thanh.

Những tấm chặn của đàn piano lớn có hiệu quả cao hơn bởi chúng chặn dây ở ngay chỗ búa gõ. Trong đàn đứng, những tấm chặn chặn ở bên dây và vì thế không đạt được hiệu quả như của đàn piano lớn. Tuy nhiên, hệ quả của quá trình chặn dây, một yếu tố rất quan trọng trong chất lượng âm thanh, lại chưa được nghiên cứu.

Hình dáng của đàn lớn thích hợp hơn đàn đứng. Đối với đàn lớn, cả hai bên hộp cộng hưởng đều được mở ra khiến cho âm thanh phát ra mà không bị cản trở. Đối với đàn đứng, hộp cộng hưởng của đàn bị ngăn cách với phòng bởi vỏ đàn và thường ở rất gần tường. Kết quả là âm thanh của đàn đứng mềm và đục hơn của đàn lớn.

Hai chiếc đàn với cùng một hình dáng có thể có âm thanh hoàn toàn khác biệt bởi sự tinh xảo về cấu tạo. Đàn lớn tạo nên cảm giác phím chuẩn hơn, âm thanh tốt hơn, có những nguyên liệu tốt hơn và nhiều thứ khác. Những khác biệt do kĩ thuật chế tạo này có thể nghe thấy, và những người thợ sửa đàn có thể phân biệt được điều này.

Nhiều sự vượt trội về âm thanh của cây đàn lớn là do kích cỡ của nó so với cây đàn đứng hiện tại. Những ưu điểm khác là do vị trí nằm ngang của dây vàhộp cộng hưởng tạo điều kiện tốt hơn cho âm thanh tỏa ra.

Dương cầm lai có ưu điểm của cả hai loại trên: dây và hộp cộng hưởng nằm ngang, kích cỡ nhỏ có thể chứa trong phòng ở. Tuy nhiên, nó vẫn to hơn đàn đứng và chất lượng âm thanh, dù hơn đàn đứng, vẫn thua xa một cây đàn lớn đúng nghĩa.

Kết cấu và các thành phần

[sửa |sửa mã nguồn]

Bàn phím

[sửa |sửa mã nguồn]

Bàn đạp

[sửa |sửa mã nguồn]
Một dương cầm thường có ba bàn đạp. Trên chiếc đànSteinway này, các bàn đạp theo thứ tự từ trái sang phải: vang âm, ngân nốt trầm, và đàn nhẹ.

Đàn dương cầm thường có ba bàn đạp được vận hành bằng chân của người chơi đàn. Trong lịch sử thay đổi của các đàn piano, nó có thể có đến ít như một cái hoặc nhiều như sáu cái.

Bàn đạp phải (damper pedal) có chức năng làm vang âm các nốt, có thể dùng để làm một tiếng kéo dài hơn mà không cần đến tay của người chơi hoặc làm các nốt liền mạch với nhau (chơi luyến).

Bàn đạp giữa (sostenuto pedal) ở trên một chiếc piano cánh, khi được dùng, người chơi có thể làm vang âm một số nốt khi các nốt khác không được.

Bàn đạp trái (soft pedal), khi đạp, sẽ làm cho các búa ở trong di chuyển về phía bên phải và làm cho chỉ có hai trong ba các sợi dây thép bị gõ. Cơ cấu này làm cho các nốt bị nhẹ đi.

Cơ học dương cầm

[sửa |sửa mã nguồn]

Bảo quản

[sửa |sửa mã nguồn]

Mỗi cây đàn piano đều được các nhà sản xuất piano luôn chú trọng đến độ ẩm. Đặc biệt đối với mỗi cây đàn Piano, nhà sản xuất sẽ khuyến nghị độ ẩm khác nhau. Với mỗi cây đàn Piano, đặc biệt là Grand Piano (Piano Thùng). Mỗi hãng sẽ khuyến nghị độ ẩm để bảo quản cây đàn piano giúp cho người chơi một cách tốt nhất. 'Trong một số mẫu của cây đàn piano, thì độ ẩm lý tưởng là từ 30% - 70%. Còn các hãng khác như là Steinway and Sons, thì độ ẩm lý tưởng là từ 40%-60%.

Chơi đàn và các kĩ thuật

[sửa |sửa mã nguồn]

Vai trò

[sửa |sửa mã nguồn]

Piano đã làm đẹp không gian ở rất nhiều ngôi nhà, và cũng là một nhạc cụ thiết yếu ở trong các phòng hòa nhạc lớn và nhỏ. Thông thường, đối với nhà có phòng khách nhỏ, thì đàn Piano dạng tủ (Upright) được để ở trong phòng khách. Đối với nhà có phòng khách rộng, thì một cây Grand Piano có thể đặt được ở không gian này. Đối với mẫu Concert Grand 2.7 mét, sẽ được đặt ở trong phòng hòa nhạc, và phòng khách có kích thức bự. Một trong số đó, đàn Piano Concert Grand với chiều dài khoảng 308 cm được sản xuất bởiFazioli có thể đặt ở phòng hòa nhạc lớn.

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải vềDương cầm.
Dòng nhạc con
Dòng nhạc trộn
Dòng nhạc theo vùng
Nhạc cụ
Chủ đề khác
Lists
Cổng thông tin:
Tiêu đề chuẩnSửa dữ liệu tại Wikidata
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Dương_cầm&oldid=72185232
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp