Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Philipp Đẹp trai

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Philipp của Áo
Công tước xứ Bourgogne
Tại vị27 tháng 3 năm 1482 – 25 tháng 9 năm 1506
(24 năm, 182 ngày)
Tiền nhiệmMarie I
Kế nhiệmCharles II
Vương quân Castilla
Tại vị26 tháng 11 năm 1504 – 12 tháng 7 năm 1506
(1 năm, 228 ngày)
Tiền nhiệmFerrando II của Aragón
Kế nhiệmIsabel của Bồ Đào Nha
Quốc vương Castilla
Jure uxoris
Tại vị12 tháng 7 năm 1504 – 25 tháng 9 năm 1506
(75 ngày)
Tiền nhiệmJuana I của CastillaVua hoặc hoàng đế
Kế nhiệmJuana I của CastillaVua hoặc hoàng đế
Đồng trị vìJuana I của CastillaVua hoặc hoàng đế
Thông tin chung
Sinh(1478-07-22)22 tháng 7 năm 1478
Brugge,Hà Lan Bourgogne
Mất25 tháng 9 năm 1506(1506-09-25) (28 tuổi)
Burgos, Tây Ban Nha
An tángNhà nguyện Vương thất Granada
Phối ngẫuJuana I của CastillaVua hoặc hoàng đế
Hậu duệEleonore, Vương hậu nước Bồ Đào Nha và Vương hậu nước Pháp

Karl V, Hoàng đế la Mã Thần thánh
Isabella, Vương hậu nước Đan Mạch, Thụy Điển và Na Uy
Ferdinand I, Hoàng đế La Mã Thần thánh
Maria, Thống chế Hà Lan thuộc Habsburg

Katharina, Vương hậu Bồ Đào Nha
Tên đầy đủ
Philipp von Österreich
Hoàng tộcNhà Habsburg
Thân phụMaximilian I của Thánh chế La MãVua hoặc hoàng đế
Thân mẫuMarie I xứ Bourgogne
Tôn giáoCông giáo La Mã
Chữ kýChữ ký của Philipp của Áo

Philipp của Áo hay còn gọi làPhilipp Đẹp trai (tiếng Đức:Philipp von Österreich hayPhilipp der Schöne;tiếng Tây Ban Nha:Felipe el Hermoso;tiếng Pháp:PhilippeIer le Beau;tiếng Hà Lan:Filips van Oostenrijk;tiếng Anh:Philip of Austria hayPhilip the Fair; 22 tháng 7 năm 1478 – 25 tháng 9 năm 1506), là Công tước xứ Bourgogne, Nhà cai trị của Hà Lan Bourgogne và là Vua củaVương quyền Castilla thông qua luậtjure uxoris và thông qua cuộc hôn nhân vớiJuana I của Castilla trong một khoảng thời gian ngắn năm 1506.

Những năm đầu đời

[sửa |sửa mã nguồn]
Bộ giáp đua của cậu bé Philipp.

Philipp được sinh ra tạiBrugge vào ngày 22 tháng 7 năm 1478, con trai củaMaximilian của ÁoMarie I xứ Bourgogne.[1] Khi Philipp ra đời, Quốc vươngLouis XI của Pháp, một đối thủ của cha mẹ Philipp, đã lan truyền tin đồn rằng Philipp thực tế là một bé gái. Khi lễ rửa tội của Philipp diễn ra, bà ngoại kế của Philipp làMargaret xứ York đã bế Philipp, trong trạng thái khỏa thân cho dân chúng chiêm ngưỡng để xóa tan tin đồn về giới tính của Philipp. Cái tên Philipp được đặt theo tên ông cố ngoại (ông nội của Marie I) làPhilippe III xứ Bourgogne. Trong lần đầu gặp cha, cả hai cha mẹ của Philipp đều tự hào về con trai, Marie còn nói với chồng rằng "Thưa ngài, hãy nhìn con trai ngài, đứa con của chúng ta, Philipp bé nhỏ, dòng dõi của đế quốc".[a] Maximilian hôn đứa trẻ và trả lời rằng:"Ôi dòng dõi Bourgogne cao quý, con của ta, được đặt tên theoPhilippe xứ Valois."[b][2]

Khi mẹ của Philipp,Marie I xứ Bourgogne qua đời năm 1482, Philipp chỉ mới được hơn 3 tuổi, do đó đã thừa hưởngCông quốc Bourgogne ở độ tuổi rất nhỏ và dược giám hộ bởi cha. Bất chấp những sự kiện chính trị diễn ra sau khi mẹ qua đời, bị chia cắt khỏi cha và em gáiMargarete, tuổi trẻ của Philipp không thiếu thốn sự xa hoa và một nền giáo dục tương xứng với địa vị. Philipp là một người tài giỏi trong bắn cung, quần vợt, đánh gậy, săn bắn và là một hiệp sĩ gan dạ như cha. Philipp cũng là một vũ công giỏi và được thừa hưởng đam mê âm nhạc từ cha.[3][4][5] Cha của Philipp, Maximilian, do bận rộn với các chiến dịch, thường xuyên vắng mặt trong thời niên thiếu của Philipp (Maximilian đã quay lại chiến đấu chỉ hai tháng sau khi Philipp ra đời). Sau này, vì các vấn đề tình cảm, Maximilian thường tránh trở về Hà Lan và bỏ lỡ lễ nhậm chức năm 1494 và đám cưới năm 1496 của con trai.[6] Gia sư của Philipp là Olivier de la Marche và François de Busleyden, người sau này chính là quan chưởng ấn của Philipp ởVlaanderen.[7]

Cai trị các vùng Habsburg ở Hà Lan và Bourgogne

[sửa |sửa mã nguồn]
Của hồi môn của chị gái Philipp, được xác định vào năm 1482 theoHiệp ước Arras và được phân phối lại vào năm 1493 theo Hiệp ước Senlis.

Năm 1493, theoHiệp ước Senlis với vuaCharles VIII của Pháp, quyền lực thực tế của Philipp được mở rộng sang các tỉnh Artois,BourgogneCharolais. Cùng năm đó, ông nội của Philipp,Friedrich III của Thánh chế La Mã, qua đời, cha của ông,Maximilian I, trở thành Hoàng đế La Mã Thần thánh. Vì quá bận rộn và căng thẳng với các vùng đất Bourgogne, Maximilian quyết định chuyển quyền cai trị cho Philipp, khi đó mới 15 tuổi. Tin này được chào đón ở các vùng đất Bourgogne, vì Philipp là người bản địa, nói tiếng địa phương, yêu hòa bình và tin tưởng các cố vấn.[8][9][10]

Tại lễ nhậm chức năm 1494, Philipp ngay lập tức bãi bỏ Đặc quyền lớn và chỉ duy trì những đặc quyền từ thờiPhilippe Tốt bụng. Ông khéo léo kết hợp chính sách tập trung quyền lực của các đời trước với nhu cầu địa phương, đồng thời thiết lập lại Tòa án Lớn Mechelen và giành lại các vùng tài sản hoàng gia. Chính sách hòa bình và phát triển kinh tế của Philipp giúp ông được dân chúng yêu mến.[11][12]

Mặc dù Philipp ban đầu là một nhà cai trị thiếu kinh nghiệm, ông biết tin tưởng và khai thác cố vấn, đồng thời có lập trường vững chắc. Ông tự giải phóng mình khỏi quyền kiểm soát của cha, thay đổi các quan chức để đảm bảo họ trung thành với mình và duy trì chính sách trung lập với Pháp, nhưng vẫn mở lại tuyến thương mại với Anh. Ông chỉ trực tiếp tham gia một chiến dịch quân sự ở Guelders cuối đời, cùng cha giải quyết các lãnh thổ còn tranh chấp.[13][14]

Philipp cũng từ từ làm giảm quyền can thiệp củaParlement de Paris (Quốc hội Paris) tại Vlaanderen và Artois, những vùng thuộc chủ quyền Pháp, mà quá trình này đượcKarl V hoàn tất sau này. Ông còn thúc đẩy lòng sùng kínhBảy Nỗi Buồn nhằm củng cố lòng trung thành với Vương triều và tăng cường sự đoàn kết chính trị một chính sách được sử dụng lâu dài bởi con trai ông, Karl V.

Philipp còn nhiều lần tham dự các kỳReichstag (Quốc hội Đế chế) ở Đức thay mặt cha: năm 1496 tạiLindau, năm 1498 tạiFreiburg, và năm 1505 tại Hagenau, nơi ông gặp các quan chức Pháp để thảo luận về các vấn đề lãnh thổ.

Quốc vương Castilla

[sửa |sửa mã nguồn]
Phillip và vợ ông, Juana, khoảng năm 1505-1506.
Cuộc gặp gỡ giữa Philipp và Ferdinand của Aragon vào ngày 20 tháng 6 năm 1506.

Năm 1504, mẹ vợ Philipp, Nữ vươngIsabel I của Castilla, qua đời, để lạiVương quyền Castilla cho con gái. Cha vợ ông,Ferrando II của Aragón, cố gắng giành quyền nhiếp chính, nhưng các quý tộc phản đối và buộc ông rút lui. Philipp được mời sang Tây Ban Nha và được công nhận là Quốc vương.

Trên đường sang Tây Ban Nha vào tháng 1 năm 1506, Philipp và Juana gặp bão và tàu bị đắm gần bờDorset. Họ đượcSir Thomas Trenchard giúp đỡ, sau đó phải lưu lại Anh dưới sự giám sát của Quốc vươngHenry VII. Philipp buộc phải kýHiệp ước Malus Intercursus, bao gồm liên minh phòng thủ, dẫn độ những kẻ nổi loạn và thỏa thuận thương mại. Sau sáu tuần, họ được phép rời Anh.

Philipp và Juana cập bếnCorunna vào ngày 28 tháng 4 năm 1506, với quân lính đánh thuê người Đức đi kèm. Qua trung gian củaHồng y Cisneros, Ferrando II cuối cùng chấp nhận Juana và Philipp nắm quyền ở Castilla. Hai vị tân và cựu vương đều đồng ý rằng Juana “không đủ khả năng và không có ý muốn cai trị”, nên cả Ferrando II và Philipp ngăn bà can thiệp chính quyền. Ngày 27 tháng 6 năm 1506,Hiệp ước Villafáfila được ký, Philipp đượcCortes Valladolid tôn làm Quốc vương của Castilla. Tuy nhiên, Ferrando đồng thời soạn tài liệu bí mật phủ nhận hiệp ước.

Philipp bổ nhiệmGarcía Laso de la Vega làm Chủ tịch Hội đồng Vương thất và ngay từ trước khi rờivùng đất thấp, ông ra lệnh tạm dừng hoạt động củaTòa án Dị giáo Tây Ban Nha. Ông đề xuất giải tán Tổng Giám mục và giải tán Hội đồng Dị giáo, nhưng qua đời sớm nên kế hoạch chưa thực hiện được.

Với tư cách là Công tước xứ Bourgogne và Quốc vương Castilla, Philipp mở rộnghệ thống bưu chính Habsburg, chuyển trung tâm vềBruxelles và năm 1500, ông hợp tác với gia đình Franz von Taxis để vận hành hệ thống, người bổ nhiệm làm tổng cục trưởng bưu điện. Ngày 18 tháng 1 năm 1505, ông thống nhất thông tin liên lạc giữa Đức, Hà Lan, Pháp và Tây Ban Nha, thêm các trạm ở Granada, Toledo, Blois, Paris và Lyon.

Philipp đem mô hình cai trị này vào triều đình Bourgogne vào Tây Ban Nha, nhưng qua đời sớm, nên phải đến thời Karl V mô hình này mới được củng cố. Ông tập trung bổ nhiệm người trung thành vào các pháo đài chiến lược, Hội đồng Hoàng gia và các chức vụ tài chính, nhưng gặp khó khăn về tài chính do quân đội chưa được trả lương.

Ông bị đánh giá là vị Quân vương ngoại quốc tiêu xài phung phí, chỉ là người chuyển tiếp, và không sống đủ lâu để cải thiện tình hình như cha mình.

Hôn nhân và con cái

[sửa |sửa mã nguồn]
Các con của Philipp và Juana.

Vào thời điểm bắt đầu cuộc hôn nhân, Philipp thực sự đã có tình cảm vớiJuana. Nhưng nền giáo dục của ông, vốn chịu ảnh hưởng của truyền thống Pháp-Bourgogne, đã góp phần tạo nên một "quan niệm cai trị mà chỉ nam giới mới nắm quyền", do đó ông chưa bao giờ coi Juana là người ngang hàng về mặt chính trị với mình và không thể chấp nhận việc bà cố gắng xây dựng bản sắc chính trị riêng. Maximilian đã cố gắng hòa giải hai vợ chồng, nói với Philipp rằng ông chỉ có thể thành công trên cương vị người cai trị thì cả hai vợ chồng phải cùng đồng lòng, nhưng bất chấp những nỗ lực của Philipp, Juana vẫn không hợp tác trong cuộc tranh giành quyền lực của ông với chính cha mình. Cuối cùng, những hành vi kiểm soát và thao túng của ông, cùng với tham vọng của Ferrando và sự trầm cảm của Juana, đã hủy hoại cuộc hôn nhân và dẫn đến những bi kịch cá nhân của Juana. Philipp và Juana có các con:

  • Leonor (1498–1558), Vương hậu của Bồ Đào Nha và Pháp.
  • Karl V (1500–1558), Vua Tây Ban Nha , Hoàng đế của Đế chế La Mã Thần thánh.
  • Isabel (1501–1526), ​​Vương hậu của Đan Mạch, Na Uy và Thụy Điển.
  • Fernando (1503-1564), Hoàng đế của Đế chế La Mã Thần thánh (1556-1564).
  • María (1505–1558), Vương hậu của Hungary và Bohemia, thống đốc củaHà Lan thuộc Tây Ban Nha.
  • Catalina (1507–1578), Vương hậu của Bồ Đào Nha.

Qua đời

[sửa |sửa mã nguồn]

Philipp I qua đời đột ngột tạiBurgos vào ngày 25 tháng 9 năm 1506, được cho là dobệnh thương hàn, mặc dù lúc bấy giờ có nhiều tin đồn ông bị đầu độc, điều mà vợ ông tin là nguyên nhân cái chết. Juana được cho là đã từ chối để tang và không muốn rời xa thi thể ông trong một thời gian. Một số giả thuyết khác về nguyên nhân cái chết bao gồmdịch hạch hoặc kiệt sức do làm việc quá mức; Philipp đã quá bận rộn đến mức không còn thời gian cho sở thíchsăn bắn. Cha ông, Maximilian thì ngay lập tức đổ lỗi choLouis XII của Pháp về cái chết của con trai trước mặt Hội đồng Hoàng gia. Philipp được an táng tại Nhà nguyện Hoàng gia Granada, bên cạnh vợ và cha mẹ vợ là Isabela I và Ferdinand II.

Ở vùng đất thấp, sau cái chết của Philipp, một phái đoàn của Hội đồng Quốc gia Hà Lan được cử đến Áo để đề nghị Maximilian làm nhiếp chính. Ban đầu ông từ chối tiếp, nhưng năm 1507 cuối cùng nhận phái đoàn và quyết địnhMargarete của Áo, em gái Philipp, trở thành thống đốc. Năm 1517, Hội đồng Quốc gia hoan nghênh việc bổ nhiệm một người bản địa khác.

Tại Tây Ban Nha, khi nghe tin Philippp mất, những người phản đối Tòa án Dị giáo đã hành động. Hầu tước xứ Priego tấn công nhà tù của Tòa án Dị giáo và giải phóng tù nhân, trong khiDiego Rodríguez Lucero, quan tòa dị giáo của Cordoba đã trốn thoát. Các quan chức và quý tộc tố cáo lạm quyền và tham nhũng của các quan tòa dị giáo, dẫn đến việc Ferdinand buộc Đại thẩm vấn viên Deza từ chức, Hồng y Cisneros lên thay thế, người đã bắt giữ Lucero vào năm 1508.

Tổ tiên

[sửa |sửa mã nguồn]
Tổ tiên của Philipp Đẹp trai
16.Leopold III của Áo
8.Ernst I của Áo[17]
17.Verde Visconti
4.Friedrich III của Thánh chế La Mã[15]
18.Siemowit IV de Mazowsze
9.Cymbarka xứ Mazowsze[18]
19.Aleksandra của Litva
2.Maximilian I của Thánh chế La Mã
20.João I của Bồ Đào Nha
10.Duarte I của Bồ Đào Nha[19]
21.Philippa của Lancaster
5.Leonor của Bồ Đào Nha[15]
22.Ferrando I của Aragón
11.Leonor của Aragón[19]
23.ÉLeonor xứ Alburquerque
1.Philipp của Áo
24.Jean I xứ Bourgogne
12.Philippe III xứ Bourgogne[16]
25.Margarete xứ Bayern
6.Charles I xứ Bourgogne[16]
26.João I của Bồ Đào Nha
13.Isabel của Bồ Đào Nha[16]
27.Philippa của Lancaster
3.Marie I xứ Bourgogne
28.Jean I xứ Bourbon
14.Charles I xứ Bourbon[20]
29.Marie xứ Berry
7.Isabelle xứ Bourbon[16]
30.Jean I xứ Bourgogne
15.Agnès xứ Bourgogne[20]
31.Margarete xứ Bayern

Ghi chú

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Văn bản tiếng Anh là: "Sir, look at your son and our child, young Philip of imperial seed."
  2. ^Văn bản tiếng Anh là: "O noble Burgundian blood, my offspring, named after Philip of Valois."

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Bietenholz & Deutscher 1987, tr. 229.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFBietenholzDeutscher1987 (trợ giúp)
  2. ^Blockmans, Willem Pieter; Blockmans, Wim; Prevenier, Walter (1999).The Promised Lands: The Low Countries Under Burgundian Rule, 1369-1530 (bằng tiếng Anh). University of Pennsylvania Press. tr. 210.ISBN 978-0-8122-1382-9. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2021.
  3. ^Drees, Clayton J. (2001).The Late Medieval Age of Crisis and Renewal, 1300-1500: A Biographical Dictionary (bằng tiếng Anh). Greenwood Publishing Group. tr. 395.ISBN 978-0-313-30588-7. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2021.
  4. ^Lerner, Edward R. (1975)."Review. Reviewed Work(s): The Emperor Maximilian I and Music by Louise Cuyler".The Musical Quarterly. Quyển 61 số 1. tr. 139.JSTOR 741689. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2021.
  5. ^Doorslaer, Dr Georges Van (1934).La Chapelle musicale de Philippe le Beau. [Signé] (bằng tiếng Pháp). publisher unknown. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2021.
  6. ^Bietenholz, Peter G.; Deutscher, Thomas Brian (ngày 1 tháng 1 năm 2003).Contemporaries of Erasmus: A Biographical Register of the Renaissance and Reformation (bằng tiếng Anh). University of Toronto Press. tr. 229.ISBN 978-0-8020-8577-1. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2021.
  7. ^Wijsman, Hanno; Wijsman, Henri Willem; Kelders, Ann; Sutch, Susie Speakman (2010).Books in Transition at the Time of Philip the Fair: Manuscripts and Printed Books in the Late Fifteenth and Early Sixteenth Century Low Countries (bằng tiếng Anh). Brepols. tr. 31.ISBN 978-2-503-52984-4. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2021.
  8. ^Dumont 1726 , tr.03–308.
  9. ^Koenigsberger & 2001 , tr.7, 69, 102.
  10. ^Limm, P. (12 May 2014).The Dutch Revolt 1559 - 1648. Routledge.ISBN978-1-317-88057-8.
  11. ^Darby, Graham (2003).The Origins and Development of the Dutch Revolt. Routledge. tr. 10.ISBN978-1-134-52483-9.
  12. ^Blockmans, Blockmans & Prevenier 1999, tr. 207.
  13. ^The New Cambridge Modern History: 1713–63. The Old Regime. volume VII. Lưu trữ CUP. 1957. trang 234.
  14. ^Carson, Patricia (1969).The Fair Face of Flanders. Lannoo Uitgeverij. tr. 120.ISBN9789020943856.
  15. ^abHolland, Arthur William (1911)."Maximilian I. (emperor)" . Trong Chisholm, Hugh (biên tập).Encyclopædia Britannica. Quyển 17 (ấn bản thứ 11). Cambridge University Press.
  16. ^abcdPoupardin, René (1911)."Charles, called The Bold duke of Burgundy" . Trong Chisholm, Hugh (biên tập).Encyclopædia Britannica. Quyển 5 (ấn bản thứ 11). Cambridge University Press.
  17. ^Chisholm, Hugh, biên tập (1911)."Frederick III., Roman Emperor" .Encyclopædia Britannica. Quyển 11 (ấn bản thứ 11). Cambridge University Press.
  18. ^Urban, William (2003).Tannenberg and After. Chicago: Lithuanian Research and Studies Center. tr. 191.ISBN 0-929700-25-2.
  19. ^abStephens, Henry Morse (1903).The story of Portugal. G.P. Putnam's Sons. tr. 139.ISBN 9780722224731. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2018.
  20. ^abKiening, Christian (1994)."Rhétorique de la perte. L'exemple de la mort d'Isabelle de Bourbon (1465)".Médiévales (bằng tiếng Pháp). Quyển 13 số 27. tr. 15–24.doi:10.3406/medi.1994.1307.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Philipp_Đẹp_trai&oldid=74458089
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp