Bài viết nàycần thêmchú thích nguồn gốc đểkiểm chứng thông tin. Mời bạn giúphoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tớicác nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.(tháng 3/2022) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này) |
Phan Khắc Sửu | |
|---|---|
Sửu vào năm 1964 | |
| Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa | |
| Nhiệm kỳ 26 tháng 10 năm 1964 – 12 tháng 6 năm 1965 (229 ngày) | |
| Thủ tướng | Nguyễn Khánh Trần Văn Hương Nguyễn Xuân Oánh(Quyền) Phan Huy Quát |
| Tiền nhiệm | Dương Văn Minh |
| Kế nhiệm | Nguyễn Văn Thiệu |
| Chủ tịchThượng Hội đồng Quốc gia | |
| Nhiệm kỳ 27 tháng 9 năm 1964 – 26 tháng 10 năm 1964 29 ngày | |
| Tổng thư ký | Trần Văn Văn |
| Tiền nhiệm | Chức vụ thành lập |
| Kế nhiệm | Nguyễn Xuân Chữ |
| Dân biểuViệt Nam Cộng hòa | |
| Nhiệm kỳ Tháng 2 năm 1959 – Không rõ | |
| Nhiệm kỳ 1966 – Không rõ | |
| Tổng trưởng Canh nôngQuốc gia Việt Nam | |
| Nhiệm kỳ 6 tháng 7 năm 1954 – 24 tháng 9 năm 1954 80 ngày | |
| Thủ tướng | Ngô Đình Diệm |
| Tiền nhiệm | Nguyễn Trung Vinh (Tổng trưởng Canh nông và Cải cách điền địa) |
| Kế nhiệm | Nguyễn Công Hầu |
| Tổng trưởng Lao động, Canh nông và Xã hội,Quốc gia Việt Nam | |
| Nhiệm kỳ 14 tháng 7 năm1949 – 21 tháng 2 năm1951 1 năm, 222 ngày | |
| Thủ tướng | Bảo Đại Nguyễn Phan Long Trần Văn Hữu |
| Tiền nhiệm | Trần Thiện Vàng (Tổng trưởng Canh nông) |
| Kế nhiệm | Lê Thăng (Tổng trưởng Xã hội) Nguyễn Trí Độ (Bộ trưởng Lao động) |
| Thông tin cá nhân | |
| Sinh | 9 tháng 1 năm 1893 tổng An Trường, quận Cái Vồn,Cần Thơ,Nam Kỳ |
| Mất | 24 tháng 5, 1970(1970-05-24) (77 tuổi) Sài Gòn,Việt Nam Cộng hòa |
| Nguyên nhân mất | Tuổi già |
| Đảng chính trị | Việt Nam Nhân dân Cách mệnh Đảng Mặt trận Đại đoàn kết Quốc dân |
| Giáo dục | Kỹ sư Canh nông |
| Nghề nghiệp | Chính khách |
| Tặng thưởng | |
Phan Khắc Sửu (1893 –1970) là một chính trị gia Việt Nam, từng giữ chức Bộ trưởng trong chính phủQuốc gia Việt Nam thời Quốc trưởngBảo Đại,Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa giai đoạn (1964 –1965).
Phan Khắc Sửu sinh ngày9 tháng 1 năm1893,[1] xuất thân từ gia đình điền chủ ở làng Mỹ Thuận, tổng An Trường, quậnCái Vồn,tỉnh Cần Thơ (ngày nay là phườngCái Vồn, thị xãBình Minh, tỉnhVĩnh Long) và nhập môn làm tín đồ đạoCao Đài thuộc chi phái Tiên Thiên trong khi ở tùCôn Đảo, về sau được ban đạo hiệu làHuỳnh Đức.
Năm 1924, ông sang du học ởTunis rồi sangParis,Pháp nơi ông đậu bằngkỹ sư canh nông.
Sau khi về nước, ông làm Chính sự vụ Sở nghiên cứu kinh tế và kỹ thuật ởNam Kỳ từ năm 1930. Tuy nhiên, ngay trong năm đó, ông tham gia ủng hộ Phong trào Sinh viên chống lại chính sách thuộc địa của chính quyền thực dân Pháp và đề xướngPhong trào Cách mạng Thống nhất dân An Nam. Năm1940, ông tham gia và hoạt động tích cực trong tổ chứcViệt Nam Nhân dân Cách mệnh Đảng, một tổ chức chính trị hoạt động đòi độc lập cho Việt Nam. Vì vậy, ông bịchính quyền thuộc địa củaToàn quyền Đông DươngJean Decoux bắt tuyên án 8 năm lao động khổ sai và giam ởCôn Đảo.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày9 tháng 3 năm1945, ông được trả tự do trở về đất liền. Ông cùng với bác sĩPhạm Ngọc Thạch thành lậpViệt Nam Quốc gia Độc lập Đảng tạiSài Gòn, một tổ chức chính trị chống Pháp dưới sự hậu thuẫn của Nhật. Ông cũng tham gia tờ báoDân Quý làm cơ quan phát ngôn của đảng.
Khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông bày tỏ thái độ bất hợp tác với cả hai chính quyền Pháp lẫnViệt Minh. Năm 1948, ông gia nhập vàoViệt Nam Dân chủ Xã hội Đảng, một đảng chính trị với thành phần chủ yếu là tín đồHòa Hảo, chủ trương ủng hộ giải pháp Bảo Đại. Với hậu thuẫn này, khi chính phủBảo Đại được thành lập năm1949, ông được cử làm Bộ trưởng Canh nông và Cứu tế xã hội nhưng chỉ một thời gian ngắn ông xin từ chức.
Đầu năm1954,Thủ tướngNguyễn Phúc Bửu Lộc mời ông làm Bộ trưởng một lần nữa, ông cũng từ chối, chỉ nhận tham gia Hội nghị toàn quốc trong Tiểu ban nghiên cứu vấn đề độc lập của Việt Nam.
Khi Ngô Đình Diệm về nước nắm quyền Thủ tướng, ông được mời giữ chức Tổng trưởng Canh nông và Cải cách Điền địa. Tuy nhiên, không lâu sau, ông nhận thấy được sự thiếu thực tâm và những mầm mống độc tài của Ngô Đình Diệm nên đã từ chức sau khi nhậm chức không bao lâu.
Tích cực trong việc vận động thống nhất các chi phái Cao Đài trong Cơ quan Cao Đài Quy Nhứt tại Tam Giáo Điện chi Minh Tân, tháng 8 năm 1955, ông được cơ bút chi phái Tiên Thiên giáng phong làmThượng Đầu Sư.
Ông đã nhiều lần gửi thư đưa yêu sách, khuyến cáo Tổng thống Diệm thay đổi chính sách; nên bị chính quyền đương thời xem ông thuộc "thành phần chống đối".
Tháng 2 năm1959, ông đắc cử dân biểu (đơn vị bầu cử Sài Gòn) rồi gia nhậpMặt trận Đại đoàn kết Quốc dân cùng vớiNguyễn Tường Tam đối lập với chính phủ. Ngày26 tháng 4 năm 1960,ông cùng 17 nhân sĩ ký tên vào bản tuyên cáo, về sau nổi tiếng với tên gọi "Tuyên cáo Caravelle", chỉ trích các sai lầm của chính quyền và yêu cầu Tổng thống phải cải tổ. Việc làm này càng làm ông trở thành cái gai trong mắt chính quyền. Nhâncuộc đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1960 thất bại, ông bị chính quyền quy tội ủng hộ đảo chính và bắt giam. Đêm11 tháng 7 năm 1963, ông bị tòa án quân sự đặc biệt Sài Gòn kết án 8 năm cấm cố cùng vớiPhan Quang Đán,Vũ Hồng Khanh, Bùi Lương... Lúc tự biện hộ trước tòa, ông đã nói:"Nếu tôi có tội, thì tôi chỉ có mỗi một tội, là tội đuổi Pháp ra khỏi Sài Gòn, tội vì Dân tộc mà thôi!".
Ngày31 tháng 7 năm1963, ông bị đày raCôn Đảo thụ án. Tuy nhiên, chỉ sau đó 3 tháng, mộtcuộc đảo chính khác nổ ra, lật đổNgô Đình Diệm, ông được đón về Sài Gòn.
Sau cuộc khủng hoảng "Tam đầu chế", ngày 8 tháng 9 năm 1964, ông đượcỦy ban Lãnh đạo Lâm thời (Tam đầu chế) mời vàoThượng Hội đồng Quốc gia. Ngày 27 tháng 9, Thượng Hội đồng bầu Phan Khắc Sửu làm Chủ tịch. Ông đã chủ tọa Thượng Hội đồng soạn thảo Ước pháp ngày 20 tháng 10 năm 1964 để thay thế cho Hiến chương lâm thời ngày 4 tháng 11 năm 1963, vốn đặt quyền lực vào tay quân đội, về danh nghĩa trao chủ quyền quốc gia lại cho đại diện dân cử đảm nhiệm. Ngày 24 tháng 10, ông được Thượng Hội đồng đề cử vào ngôi vịQuốc trưởng.
Sau khi nhậm chức Quốc trưởng, ngày4 tháng 11 năm 1964, ông đã bổ nhiệmTrần Văn Hương làm thủ tướng, tức là vị thủ tướng dân sự đầu tiên kể từ khi nền Đệ Nhất Cộng hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm bị phe quân đội lật đổ. Tuy nhiên, chính phủ Trần Văn Hương nhanh chóng bị tê liệt bởi sự phản đối của nhiều giới cũng như thiếu hợp tác của Hội đồng Quân nhân.
Khủng hoảng kéo dài trong 2 tháng, ngày18 tháng 12 năm 1964, tướngNguyễn Khánh cầm đầu các tướng trẻ thành lậpHội đồng Quân lực và sau đó 2 ngày thì ra lệnh giải thể Thượng Hội đồng. Tuy nhiên, ông vẫn được lưu nhiệm Quốc trưởng. Đến ngày27 tháng 1 năm 1965, Thủ tướng Hương cũng bị buộc phải giải nhiệm, giao quyền Thủ tướng lại cho Phó thủ tướngNguyễn Xuân Oánh.
Ngày16 tháng 2 năm 1965, tướng Nguyễn Khánh, với danh nghĩa Chủ tịch Hội đồng Quân lực, đã ký quyết định tuyển nhiệm ông Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng và bổ nhiệm ôngPhan Huy Quát làm Thủ tướng thành lập chính phủ mới. Chưa đến 10 ngày sau, ngày 25 tháng 2 năm 1965, tướng Nguyễn Khánh bị các tướng trẻ truất phế, phải nhận chức đại sứ lưu động ở nước ngoài. Chưa đầy 4 tháng sau, ngày5 tháng 6 năm 1965, chính phủ dân sự của Thủ tướngPhan Huy Quát bịHội đồng Quân lực giải tán. Các tướng trẻ thành lập mộtHội đồng lãnh đạo quốc gia và cửTrung tướngNguyễn Văn Thiệu là Chủ tịch, giữ vai trò Quốc trưởng. Ngày 14 tháng 6 năm 1965, Phan Khắc Sửu chính thức rời ngôi vị Quốc trưởng.
Nổi tiếng thanh liêm, ở cương vị Quốc Trưởng ông chỉ ăn cơm chính quyền chu cấp còn tiền lương chuyển sang quỹ trợ cấp xã hội cho đồng bào. Đặc biệt, bà Sửu là một tín hữu Cao Đài với đạo danh Huỳnh Điệp, không ngồi vị trí mệnh phụ phu nhân mà chỉ tự mua bán vải ở chợ Vườn Chuối quận 3 để trang trải cuộc sống chăm sóc con cháu.
Năm 1966, ông trở lại hoạt động chính trị, một lần nữa đắc cử dân biểu và được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Trong cuộcbầu cử tổng thống ngày4 tháng 9 năm1967, liên danh 2 tướng Nguyễn Văn Thiệu -Nguyễn Cao Kỳ dù chỉ giành được 34,8% số phiếu bầu nhưng vẫn dẫn đầu để đắc cử. Quốc hội Việt Nam Cộng hòa đã nhóm họp và bỏ phiếu lại với 58 phiếu thuận và 43 phiếu chống. Sau vụ này, ông đã từ chức để phản đối chính quyền quân sự mang danh dân chủ nhưng cũng không thể đảo ngược được tình thế. Quá ngán ngẩm, ông rút khỏi chính trường.
Năm1968, ông cùng với một số nhân sĩ như Nguyễn Thành Vinh, Trần Sinh Cát Bình... thành lậpPhong trào Tân Dân Việt Nam.[2]
Ông qua đời ngày24 tháng 5 năm1970. Tang lễ của ông được tổ chức theo nghi thức Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa, có tổng thốngNguyễn Văn Thiệu vànội các đến phúng và tặng "Đệ Nhất Bảo quốc Huân chương".[3]