Bài viết này hiện đang gây tranh cãi vềtính trung lập. Có thể có thảo luận liên quan tạitrang thảo luận. Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi vấn đề được giải quyết hoặc đạt được đồng thuận trên trang thảo luận của bài viết. (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này) |

Phụ nữ Việt Nam là nguồn nhân tố quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của xã hội Việt Nam. Lịch sử đã và luôn minh chứng sự hiện diện của phu nữ trong các vai trò quan trọng của xã hội. Quá trình xây dựng, lao động sản xuất, đấu tranh chống thiên tai, địch họa, tề gia... Được khẳng định qua năng lực và phẩm hạnh trong các hoạt động xã hội, bao gồm cả trong lĩnh vực phi truyền thống nhất, góp một phần to lớn công sức và trí tuệ cho nềnhoà bình vàvăn minh nhân loại.
Chiếm 51%lực lượng lao động ởViệt Nam, phụ nữ ởnông thôn vẫn đóng vai trò chính trong hoạt động sản xuấtnông nghiệp. Phụ nữ vẫn đóng vai trò chính trong công việcgia đình và nuôi dạy con cái. Trong số các đại biểu củaQuốc hội Việt Nam, tổ chức quyền lực cao nhất, phụ nữ chiếm 27,3% và được Liên Hợp Quốc đánh giá là: "Phụ nữ Việt Nam tham gia hoạt động chính trị cao nhất thế giới". Theo thống kê, số lượng nữ sinh theo học tại bậc trung học phổ thông là 53,8%, tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%, thạc sĩ 33,95%, tiến sĩ 25,96%.
Lịch sử Việt Nam luôn ghi nhận phụ nữ là nguồn chảy của sự hạnh phúc, chăm sóc chồng con, đỡ đần cha già mẹ yếu, là chỗ dựa trong các phương diện cuộc sống gia đình.
Phụ nữ có các vai trò là người yêu, người vợ, người mẹ,người mang lại hạnh phúc cho gia đình, người đóng góp bền bỉ sự nghiệp của Quốc gia:
Quốc Mẫu Âu Cơ, gần 5000 năm trước kết duyên cùng vuaLạc Long sinh được 50 con trai 50 con gái;Trưng Vương (40-43), tuy triều đại này chỉ tồn tại 3 năm, nhưng đã chứng tỏ được tinh thần bất khuất của người phụ nữ trong thời kỳ đầu giữ nước;Triệu Thị Trinh (225-248) cùng anhTriệu Quốc Đạt khởi nghĩa năm248 chống quân Đông Ngô cai trị tàn ác;Thái Hậu Dương Vân Nga (942-1000) là người đàn bà quyền lực của 2 triều đạinhà Đinh vànhà Tiền Lê, bà được biết đến với vai trò là vợ của 2 vua; Nguyên phi Ỷ Lan (tên thật làLê Thị Ỷ Lan) triều Lý, bà xuất thân từ gia đình nông dân nhưng sau trở thành Hoàng thái hậu;Công chúa Huyền Trân (cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14) là con gái vua Trần Nhân Tông, bà được gả cho vua Chiêm Thành (Champa) để đổi lấy hai châu Ô và Lý cho nướcĐại Việt;Công chúa An Tư (thời vuaTrần Nhân Tông), là con gái út vua Trần Thánh Tông, bị gả cho Thoát Hoan nhằm trì hoãn cuộc xâm lăng của quân giặc, chờ thời cơ đánh thắng giặc;Công chúa Ngọc Hân (1770-1799) là con vuaLê Hiển Tông, bà có tài văn học nên được Hoàng ĐếQuang TrungNguyễn Huệ phong làm Bắc cung Hoàng Hậu;Công chúa Ngọc Vạn (thế kỷ 17) giữ những chức vụ quan trọng trong triềuChân Lạp, bà đã có công mở đường cho người Việt trong cuộc Nam tiến mở rộng giang sơn;Bùi Thị Xuân (?-1802) là tướng tài giỏi củanhà Tây Sơn, vợ của danh tướngTrần Quang Diệu...
Phụ nữ là nhà văn, nhà thơ có danh phận được nhiều đời truyền tụng, như: Nữ sĩĐoàn Thị Điểm (1705-1746) người tỉnh Bắc Ninh, hiệu là Hồng Hà nữ sĩ rất giỏi thơ văn; Nữ sĩHồ Xuân Hương (1780-1820) có tài thơ văn cả về chữ Nôm và chữ Hán;Bà Huyện Thanh Quan (Đầu thế kỷ 19) tên thật là Nguyễn Thị Hinh, bà được mời làm Cung Trung giáo tập, dạy cung phi và công chúa trong cung;Thái Hậu Từ Dũ (1810-1902) người tỉnh Gia Định, hiệu Từ Dũ Bát Huệ Thái hoàng Thái hậu, là quý phi của vua Thiệu Trị, sinh ra vuaTự Đức nên trở thành Thái Hậu.
Ngoài ra có những phụ nữ không có quyền cao chức trách trong xã hội ,họ chỉ là những con người rắt đỗi bình thường , lam lũ với cuộc sống,quanh năm "bán mặt cho đất bán lưng cho trời " với những số phận và tâm tư hạn hẹp nhưng được lịch sử trân trọng lưu lại với nhiều hình ảnh và từ những thời buổi đang cònNho giáo độc tôn.

Hình ảnh phụ nữ thông quavănthơ,ca dao,tục ngữ truyền tụng trong dân gian:"Thân cò lặn lội bờ ao - Gánhgạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non". Phần nào minh chứng người phụ nữ xưa thường bị gạt ra lề cuộc sống thiết yếu nhưng chặt đầy tính gia phong cổ hủ. Bị dồn nén vào khuôn khổ chật hẹp của đời sống gia đình:"Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" (Ở nhà theocha. Lấy chồng theo chồng, chồng chết theo contrai). Khi lấy chồng, người con gái phải học hành để gánh vác nhiều công việc chính trong gia đình. Họ học không phải để thi cử, tiến thân, mà để chuẩn bị cho cuộc sống vất vả ,cật lực lo cho bên nhà chồng. Người xưa quan niệm,hôn nhân đối với người phụ nữ là do gia đình sắp đặt , may mắn thì gặp được người chồng tử tế, giỏi giang, lỡ lấy phải người chồng vũ phu hoặc nghèo khó thì phải gắng chịu trong hoàn cảnh ấy . Người phụ nữ làm dâu có trách nhiệm quán xuyến mọi việc gia đình, theo thời gian đã có được ý chí và nghị lực can trường, tuy nhiên thực tế cuộc sống vẫn đẩy họ đến cảnh cam chịu, gần như suốt cả cuộc đời phải gánh chịu những hậu quả không ra gì cả về thể xác lẫn tinh thần.
Với quan niệm"Tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ có một chồng", người phụ nữ là nạn nhân của chế độ đa thê (bất kể là vợ cả hay vợ lẽ), luôn chìm đắm trong những mối mâu thuẫn, bất hòa, khổ đau. Khi người chồng chết người phụ nữ cũng mất quyền thừa kế tài sản và phải phục tòng người con trai của họ.
Phần lớn phụ nữ Việt Nam thời xưa không được coi trọng, không có được những địa vị xứng đáng trong gia đình, xã hội, phải chịu nhiều sự áp đặt, bất công, tư tưởng trọng nam khinh nữ (Nam trọng nữ khinh, nam ngoại nữ nội). Người phụ nữ không có được cơ hội phát triển ngang tầm với phát triển của xã hội,họ chỉ là hình bóng sau lưng người chồng trong các gia đình nhưng vẫn được xem là tác nhân trong sự thành công của người chồng.

Tính đề cao đối với người phụ nữ Việt Nam từ xưa vẫn là tinh thần làm việc,trách nhiệm cao và đấu tranh có lịch sử hàng nghìn năm. Phụ nữ Việt Nam cống hiến rất nhiều cho mọi mặt của nền độc lập, thống nhất dân tộc được như bây giờ. Từ các cuộc chiến tranh đó đã sản sinh ra những phụ nữ đảm đang, bất khuất, để lại danh tiếng cho các đời sau nhưNguyễn Thị Minh Khai,Võ Thị Sáu,Hoàng Ngân,Mạc Thị Bưởi,Nguyễn Thị Chiên,Nguyễn Thị Lét,Tạ Thị Kiều,Kan Lịch,Lê Thị Hồng Gấm,Nguyễn Thị Định,Nguyễn Thị Bình,Nhất Chi Mai,Nguyễn Thị Út (Út Tịch). Với sự mở đầu trang sử là cuộc chiến chống quân xâm lăng củaHai Bà Trưng bằng lời thề xuất quân, "Một xin rửa sạch nước thù, Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng, Ba kẻo oan ức lòng chồng, Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này". Chỉ vài thế kỷ sau người thiếu nữTriệu Thị Trinh đã tự khẳng định là một nhi nữ hào kiệt, "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá kình ngoài biển Đông."[1]
Các cuộc chiến tranh sau này xuất hiện nhiều phụ nữ tiêu biểu trong khó khăn gian khổ,dù có trong hoàn cảnh khó khăn đến đâu thì tinh thần yêu nước và ý chí trách nhiệm đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc của họ vẫn luôn rực cháy mãi. Họ là những con người gan dạ,không ngại hiểm nguy , không quản ngày đêm và bom đạn, vừa lao động sản xuất, vừa sẵn sàng cho chiến tranh. Tinh thần của họ là"Ruộng rẫy như chiến trường, cuốc cày như vũ khí", gồm có hàng vạn nữ nông dân và công nhân "tay cày, tay súng", "tay búa, tay súng" làm nên một hậu phương vững chắc, trên ruộng đồng, công trường, nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ...
Người phụ nữ bước ra từ các cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc, được nhân dân và nhà nước Việt Nam tôn vinh là những nữ anh hùng và nhữngbà mẹ Việt Nam anh hùng, được Chủ tịchHồ Chí Minh trao tặng 8 chữ vàng "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".
Ngày nay tuy chưa phải đã hết những định kiến, nghi ngại, thậm chí là kỳ thị, nhưng xét toàn diện, thì người quan sát trong và ngoài Việt Nam đều có sự thống nhất nhận xét về phụ nữ Việt Nam, cả về số lượng và chất lượng đóng góp đã gìn giữ và phát huy được vai trò đối với thực tiễn phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực thiết yếu.

Từ phải đảm đương vai trò "đối nội" trong khuôn khổ gia đình, phụ nữ ngày nay còn tài cán với các trọng trách "đối ngoại". Là một sự nghiệp không còn chỉ dành chonam giới. Họ phải khẳng định giá trị, khả năng bằng sự nghiệp và tính vươn lên của bản thân. Khát vọng với sự nghiệp không đơn giản chỉ như thoát khỏi vòng cương tỏa từ khuôn khổ gia đình. Hơn thế nữa họ khẳng định vị thế như là những người đứng đầu tập đoàn, công ty doanh nghiệp, thậm chí là những lãnh đạo trong các tổ chức củachính phủ.
Những thành tích của họ được xã hội ghi nhận và đánh giá cao trong các lĩnh vựckhoa học,công nghệ vàgiáo dục. Không ít nữ học sinh, sinh viên đạt giải cao trong các kỳ thi cấp quốc gia và quốc tế. Tầng lớp nữ trí thức có những công trình khoa học giá trị, mang lại hiệu quả kinh tế cao: Số nữ Giáo sư chiếm tỷ lệ 3,5%; Phó giáo sư 5,9%; Tiến sĩ 12,6%; Tiến sĩ khoa học 5,1%; 19 nữAnh hùng Lao động, và nhiềuGiải thưởng Kovalépscaia,Nghệ sĩ Nhân dân,Nghệ sĩ ưu tú. Tỷ lệ nữ là đại biểuQuốc hội tăng qua các thời kỳ bầu cử (khóa I (1946-1960) là 3%, đến khóa XII (2007 – 2012) tăng lên là 25,76%).Ngành Giáo dục và Đào tạo từng có nữbộ trưởng, và đương nhiệmthứ trưởng, và nhiều phụ nữ làm cán bộ quản lý các cấp Vụ, Viện,Sở, Phòng, Ban, các trường và các đơn vị giáo dục: Có 11 nữ nhà giáo được phong danh hiệuNhà giáo nhân dân, 1.011 nữ nhà giáo được phong danh hiệuNhà giáo Ưu tú...[2]
Người phụ nữ Việt Nam tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau và có ảnh hưởng không nhỏ đối với giá trị và lợi ích của toàn xã hội. Được thể hiện thông qua các môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá, nghệ thuật...
Theo quan niệm từ thuyếtKhổng Tử thì Tứ đức phụ nữ là Công, Dung, Ngôn, Hạnh:
Theophong tục, tập quán vàtín ngưỡng của người Việt Nam, nhất làtín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thường có sự so sánh, phân biệt giữa nam giới với phụ nữ. Ngoài việc người đàn ông có trách nhiệm thờ cúng cha mẹ, tổ tiên thì người phụ nữ lấy chồng phải hoàn toàn theo chồng, phải có trách nhiệm thờ phụng tổ tiên nhà chồng. Họ không được thờ phụng cha mẹ đẻ tại nhà mình kể cả khi không có anh em trai, khi đó phải nhờ một người đàn ông khác, có thể là em hoặc cháu trong họ nội thờ cúng hộ. Tập tục xấu này thường tạo ra tiêu cực trong đời sống văn hoá người phụ nữ. Muốn có được người thừa tự, nhiều gia đình chỉ có con gái đã nhận thêm con nuôi là trai. Người chồng cho vợ đi "xin" hoặc người vợ cho chồng đi "ở" với người phụ nữ khác để có con trai. Họ có tâm niệm "bế con chồng hơn bồng cháu ngoại" và không băn khoăn nhiều đến việc để lại hậu duệ, miễn là phải có người "hương khói" về sau.

Phật giáo (Tiểu thừa) được du nhập trực tiếp từẤn Độ qua đường biển vào Việt Nam khoảngthế kỉ 2 sauCông nguyên. Phật giáo Việt Nam không hẳn xuất thế mà thường nhập thế, gắn với phù chú, cầu xin tài lộc, phúc thọ hơn là tu hành thoát tục.[3] Người phụ nữ đi chùa lễ Phật để cầu an, cầu sự may mắn cho bản thân và người thân trong gia đình. Theo quan niệm cũ thì bản chất phụ nữ là chân yếu, tay mềm, cần có sự che chở, giải thoát những bất công, nỗi khổ đau phát sinh từ cuộc sống. Ngoài nhờ cậy từ các yếu tố con người và xã hội giải quyết giúp đỡ thì họ thường tìm đến để cầu nguyện dưới các tượng Phật, các Thần và Tiên ởChùa,Đền, miếu, phủ... Điều khác biệt trong nghệ thuật Phật giáo Việt Nam là từ các pho tượng như tượng Bà Man Nương, tượng Bà Trắng, Bà Đỏ đến tượngKim đồng -Ngọc Nữ... đều mang dáng dấp và vẻ đẹp người phụ nữ, bên trong đó quy tụ nhiều nét nghệ thuật thế tục.
ĐạoMẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần (còn gọi là cácThánh Mẫu), các Thánh Mẫu có sự gắn bó với cuộc sống trần tục, gần gũi với dân gian. Tín ngưỡng này có từ lâu đời, hiện thân của nó là các hiện tượng tự nhiênmây,mưa,sấm,chớp. Khi trách nhiệm người đàn ông là công việc săn bắn, giữ đất, giữ làng thì công việc nông nghiệp do người phụ nữ hoàn toàn đảm nhiệm. Từ hình ảnh người phụ nữ cụ thể được dân gian nhân hoá thành một bà Mẫu cao cả tâm linh và quyền năng. Qua đó, Mẫu còn được hiểu như làđất,nước, câylúa, là mọi thứ làm ra sự sống cho con người. Thờ các Thánh Mẫu được xem như một chỗ dựa tinh thần của người phụ nữ, thường mang đậm màu sắc tín ngưỡng của các vùng thuần nông nghiệp. Các đền đài, miếu, phủ thờ tập trung chủ yếu ở các vùng đồng bằng và trung du nhưPhủ Giầy (Nam Định),Phủ Tây Hồ (Hà Nội), ĐềnSuối Mỡ (Bắc Giang), Chùa Bà Đức Sanh (Bình Thuận)...
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được thành lập ngày20 tháng10 năm1930. Là thành viênMặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên Liên đoàn phụ nữ dân chủ Quốc tế, thành viên Liên đoàn các tổ chức phụ nữASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á).
Hệ thống tổ chức gồm 4 cấp:
Những tên gọi trong lịch sử: Hội Phụ nữ Giải phóng (1930 –1935), Hội Phụ nữ Dân chủ (1936 –1938); Hội Phụ nữ Phản đế (1939 –1941); Đoàn Phụ nữ Cứu quốc (1941 –1945).[4]
Các ngày kỷ niệm:Ngày 20 tháng 10 vàNgày 8 tháng 3 hàng năm.
Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam là cơ quan trực thuộc Chính phủ phối hợp hoạt động của Chính phủ giải quyết những vấn đề liên ngành liên quan đến sự tiến bộ của phụ nữ.
Việt Nam đã kýCông ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) củaLiên Hợp Quốc.
| “ | "Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ" | ” |
| — Chủ tịchHồ Chí Minh, 8/3/1952 | ||


Tính hoạt động nghệ thuật ở người phụ nữ Việt Nam có sự lồng ghép giữa các giai đoạn lịch sử, giữa dân tộc và thế giới mở hiện đại. Nghệ thuật có nguồn gốc từ nền văn hoá đa sắc tộc, phục vụ nhu cầu tinh thần cho chính dân tộc họ. Nghệ thuật thăng trầm cùng lịch sử vốn có nhiều giai đoạn chiến tranh và hoà bình. Người phụ nữ ở vào những hoàn cảnh xã hội nhất định đã đem đến những hiệu quả tinh thần, thông qua những hoạt động lao động nghệ thuật, bao gồm:Thể thao,Điện ảnh, camúanhạc,thời trang,điêu khắc,hội họa,ẩm thực,tiêu dùng, đối nhân xử thế...
Người Phụ nữ Việt Nam nổi bật trong các tác phẩmđiện ảnh, được thể hiện đặc sắc theo suốt 3 thời kỳ:
Thời kỳ1959 -1975, tuy điện ảnh Việt Nam ra đời trong chiến tranh nhưng đã phát triển được nhiều tác phẩm nổi tiếng nhưChung một dòng sông,Vợ chồng A Phủ,Con chim vành khuyên,Đường về quê mẹ,Nổi gió... Và là thời kỳ đầu của cả phim truyện, phim tài liệu vàphim hoạt hình của Việt Nam, với nhiều tác phẩm giành giải thưởng tạiliên hoan phim quốc tế.[5]
Thời kỳ1976 -1986, có nhiều biến động về kinh tế, xã hội, xuất hiện những mâu thuẫn vì tồn đọng cái cũ trong cái mới. Những tác phẩm điện ảnh ra đời nhưng đã có sự biến đổi mạnh mẽ về phong cách tiếp cận và khai thác đề tài về người phụ nữ. Được thể hiện khá rõ nét qua những bộ phimMùa gió chướng,Chom và Sa,Hòn Đất,Đứng trước biển,Chuyến xe bão táp,...
Thời kỳ từ1987 đến nay là thời kỳ xóa bỏ bao cấp và hội nhập quốc tế, điện ảnh đã và đang phản ánh thực tế cuộc sống người phụ nữ Việt Nam trong xã hội hiện tại. Một phần quay về với những số phận con người trong và sau chiến tranh nhưAnh chỉ có mình em,Bông hoa rừng Sác,Hà Nội 12 ngày đêm,... Phần khác là những người đàn bà trăn trở, vật lộn với cuộc sống mưu sinh trong phim "Giải hạn", "Hải Nguyệt"; sự sao nhãng cuộc sống bản thân, gia đình và xã hội để lao vào một kiếp đời phù du của những cô gái nhảy đáng thương trong phimGái nhảy; là nhân vật Dần, một điển hình cho người phụ nữ chịu thương, chịu khó, đức hạnh và dịu dàng trong phimÁo lụa Hà Đông...
Bên cạnh ngành điện ảnh, phụ nữ Việt Nam còn là lực lượng diễn viên chủ lực trên các sàn diễn kịch trường, hát dân ca, hátchèo, hát bội (háttuồng) và hátcải lương.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay phụ nữ đóng góp một phần rất lớn vào quá trình phát triển của đất nước, thể hiện ở số nữ chiếm tỉ lệ cao trong lực lượng lao động. Với hơn 50% dân số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước.[6]
Phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện nay ngoài những điểm tích cực, tiến bộ thì vẫn đang đối mặt với một số vấn đề hạn chế, tiêu cực trong xã hội là:
Đảng Cộng sản Việt Nam vàNhà nước Việt Nam "luôn tạo điều kiện cho phụ nữ Việt Nam phát triển" và ngày 21 tháng 1 năm 2002,Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ký quyết định phê duyệt "Chiến lược Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, vì sự Tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
Các Hội Liên hiệp Phụ nữ có chi nhánh ở khắp các địa phương với rất nhiều quan chức, tuy nhiên đôi khi lại chậm chạp cứu trợ người phụ nữ trong những vụbạo lực gia đình,lạm dụng tình dục vàbuôn bán phụ nữ.[29][30]
Liên Hợp Quốc xem bình đẳng giữa hai giới là góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam,Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) góp phần tạo thêm nhiều việc làm và việc làm tốt hơn cho nữ thanh niên Việt Nam,Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) hiện đang hỗ trợ phát triển doanh nghiệp cho phụ nữ trong lĩnh vực chế biến lương thực, thực phẩm. Theo bà Pascal Brudon, đại diện củaTổ chức Y tế Thế giới (WHO) tại Việt Nam: "Việc tăng cường bình đẳng, công bằng giới và tạo điều kiện cho phụ nữ được tham gia quyết định các vấn đề sinh đẻ, tài chính và gia đình của mình sẽ cải thiện sức khoẻ và cuộc sống của phụ nữ và nam giới ở Việt Nam".
Việt Nam nhận được nhiều sự trợ giúp của nước ngoài để phát triểnan sinh xã hội cho phụ nữ, san bằng nhữngbất bình đẳng xã hội và tăng cườngbình đẳng giới tính. Như năm 2012,Liên Hợp Quốc đạ tăng gấp đôi viện trợ và cấp cho Việt Nam 40 triệu đô la giúp phát huy bình đẳng giới tính và quyền của phụ nữ trong 5 năm từ 2012 tới 2016[31]
{{Chú thích web}}:Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:|ngày tháng= (trợ giúp)