Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Phạm Quỳnh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phạm Quỳnh
Phạm Quỳnh năm 1942
Chức vụ
Thượng thưBộ Lại
Nhiệm kỳ1942 – 1945
Hoàng đếBảo Đại
Tiền nhiệmThái Văn Toản
Kế nhiệmcuối cùng
Vị tríĐại Nam
Nhiệm kỳ1933 – 1942
Kế nhiệmTrần Thanh Đạt
Nhiệm kỳ1932 – 1933
Nhiệm kỳ1917 – 1932
Tiền nhiệmđầu tiên
Kế nhiệmNguyễn Tiến Lãng
Thông tin cá nhân
Sinh(1892-12-17)17 tháng 12, 1892
Hà Nội,Bắc Kỳ,Liên bang Đông Dương
Mất6 tháng 9, 1945(1945-09-06) (52 tuổi)
Thừa Thiên,Trung Bộ,Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Nghề nghiệpNhà báo, quan lại
Dân tộcKinh
VợLê Thị Vân (1892-1953)
ChaPhạm Hữu Điển
Con cáiPhạm Giao
Phạm Thị Giá
Phạm Thị Thức
Phạm Bích
Phạm Thị Hảo
Phạm Thị Ngoạn
Phạm Khuê
Phạm Thị Hoàn
Phạm Tuyên
Phạm Thị Diễm (Giễm)
Phạm Thị Lệ
Phạm Tuân
Phạm Thị Viên.
Alma materTrường Bưởi

Phạm Quỳnh (chữ Hán: 范瓊;17 tháng 12 năm1892 -6 tháng 9[1] năm1945) là một nhà văn hóa,nhà báo,nhà văn và quan đại thầntriều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong trong việc quảng báchữ Quốc ngữ và dùngtiếng Việt - thay vìchữ Nho haytiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu làThượng Chi (尚之), bút danh:Hoa Đường (華堂),Hồng Nhân.

Ông được xem là người có quan điểm ủng hộ việc tự trị củaViệt Nam dưới sự bảo hộ củaPháp, việc khôi phục quyền hành củaTriều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc,Trung,Nam), và kiên trìchủ nghĩa quốc gia với thuyếtQuân chủ lập hiến. Tuy nhiên, ông cũng bị nhiều người đương thời chỉ trích vì thái độ thân Pháp và cộng tác với chính quyềnthực dân Pháp.[2]

Tiểu sử

[sửa |sửa mã nguồn]
Phạm Duy Tốn, Phạm Quỳnh vàNguyễn Văn Vĩnh tại Paris năm 1922

Phạm Quỳnh sinh tại số 17 phốHàng Trống,Hà Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xãThúc Kháng), phủBình Giang, tỉnhHải Dương, một làng khoa bảng, có truyền thống hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi, Phạm Quỳnh côi cút được bà nội nuôi ăn học.

Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, đỗ đầu bằng Thành chung (tốt nghiệp) Trường trung học Bảo hộ (tứcTrường Bưởi, còn gọi là trường Thông ngôn).

Hoạt động báo chí, văn hóa xã hội

[sửa |sửa mã nguồn]

Năm 1908, Phạm Quỳnh làm việc ởTrường Viễn Đông Bác cổ tạiHà Nội lúc vừa tuổi 16.

Từ năm 1916, ông tham gia viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút kỳ cựu củaNam Phong tạp chí từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 cho đến năm 1932 nhằm truyền bá tư tưởng, học thuật đông tây kim cổ, luyện quốc văn trở nên hoàn thiện từ đó phát triển thành tinh thần dân tộc[3].

Cũng trong thời kỳ 1924–1932, ông còn là giảng viên Trường Cao đẳng Hà Nội.

Ngày 2 tháng 5 năm 1919, ông sáng lập và là Tổng Thư kýHội Khai trí Tiến Đức,Trần Trọng Kim là Trưởng ban Văn học của Hội; và Hội trưởngHội Trí tri Bắc Kỳ.

Năm 1922, với tư cách đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp dự Hội chợ triển lãmMarseille rồi diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân lýViện Hàn lâm Pháp về dân tộc giáo dục.

Năm 1924, ông được mời làm giảng viên Khoa Bác ngữ học, Văn hóa, Ngữ ngôn Hoa Việt, Trường Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báoFrance - Indochine.

Từ năm 1925–1928, Phạm Quỳnh là Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ; năm 1926 ông làm ởHội đồng Tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929 được cử vào Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương.

Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướngthuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lậphiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dânViệt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ.

Năm 1931, ông được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hộiBắc Kỳ.

Thượng thư Nam triều

[sửa |sửa mã nguồn]
5 vịThượng thư thời vua Bảo Đại, từ trái qua phải:Hồ Đắc Khải, Phạm Quỳnh,Thái Văn Toản,Ngô Đình Diệm,Bùi Bằng Đoàn.

Ngày 11 tháng 11 năm 1932, sau khiBảo Đại lên làm vua thayKhải Định, ông được triều đìnhnhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền, thôi không làm chủ bútNam Phong tạp chí nữa. Tại Huế thời gian đầu ông làm việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làmThượng thưBộ Học và cuối cùng giữ chức vụ Thượng thưBộ Lại (1942–1945).

Trong một bài viết trên báoSông Hương, ông đã đả pháTrần Trọng Kim và các sử gia phong kiến khi choTriệu Đà là vua của nước Nam. Theo ông,"Quốc sử phải lấy dân tộc làm nền","sử gia phong kiến tôn y (Triệu Đà) là ông vua khai quốc, ấy là đã làm một việc vô nghĩa... Hoặc có ai ngờ cho tôi sở dĩ cái kiến giải nầy là tại quá trọng vềquốc gia chủ nghĩa, và cũng bởi cái chủ nghĩa ấy khích thích nên tôi mới viết bài này".[4]

Cuối đời

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngày9 tháng 3 năm 1945,Nhật đảo chínhPháp.Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập. Ông lui về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ sông đào Phủ Cam,Huế.

Ngày25 tháng 8 năm1945, dân quân Việt Minh bắt được một nhóm biệt kích Pháp, trong đó có mật lệnh liên lạc với Phạm Quỳnh,Ngô Đình Khôi để được hỗ trợ chống lại chính quyền cách mạng. Phạm Quỳnh bịPhan HàmVõ Quang Hồ bắt giữ theo lệnh khẩn của Mặt trận Việt Minh và áp giải ra khỏi Huế cùng với Ngô Đình Khôi (anh cùng cha khác mẹ vớiNgô Đình Diệm) và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi). Ba người bị xử bắn không lâu sau đó[5]

Năm 1956, hai con của Phạm Quỳnh là bà Phạm Thị Hảo (sinh năm 1920) và Phạm Tuân (sinh năm 1936), hiện định cư tạiHoa Kỳ, được theo đoàn tìm mộ cha conNgô Đình Khôi và Ngô Đình Huân, là anh và cháu củaNgô Đình Diệm, để tìm di hài cha. Di hài ông được tìm thấy năm1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày9 tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.[6]

Di sản

[sửa |sửa mã nguồn]

Phạm Quỳnh được coi là người đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết lý luận.Dương Quảng Hàm đánh giá các công trình của ông là đã "luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng vềtriết học, khoa học mới".[7]

Trước đây, cũng có nhiều người cho rằng ông gắn bó với các chủ trương chính trị củathực dân Pháp. Ông bị coi là "ru ngủ" thanh niên trí thức trong cái "hồn nước" mơ hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng chống Pháp. Trong một thời gian dài, quan điểm chính thống củaViệt Nam Dân chủ Cộng hòaCộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gọi ông là tay sai đắc lực của Pháp.[8]

Kể từ năm2000, nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh đã được xuất bản tại Việt Nam:

  • Mười ngày ở Huế, Nhà xuất bản Văn học - 2001
  • Luận giải Văn học và Triết học, Nhà xuất bản Thông tin, 2003
  • Pháp du hành trình nhật ký,Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2004
  • Thượng Chi văn tập, Nhà xuất bản Văn học, 2007
  • Du ký Việt Nam,Nhà xuất bản Trẻ, 2007
  • Phạm Quỳnh - Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp, Nhà xuất bản Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ1922 đến1932)

Theo nhạc sĩPhạm Tuyên - con trai của học giả Phạm Quỳnh, vào mùa thu năm1945,Hồ Chí Minh đã nói với hai người chị của ông làPhạm Thị GiáPhạm Thị Thức rằng:"Cụ Phạm là người củalịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. Con cháu cứ vững tâm đi theo cách mạng".[9]

Ngày28 tháng 5 năm 2016, hội đồnghọ Phạm Việt Nam phối hợp cùng gia đình nhạc sĩPhạm Tuyên tổ chức lễ khánh thành công trình trùng tu mộ phần và dựng tượng Phạm Quỳnh tạiThành phố Huế. Bức tượng bán thân Phạm Quỳnh do chính người cháu ngoại của ông làkiến trúc sư Tôn Thất Đại thiết kế vớichiều cao 60 cm, bề ngang 50 cm, được đặt ở bục cao gần 2 m nằm ngay sau ngôi mộ ông ở trước chùa Vạn Phước (phườngTrường An,Thành phố Huế). Phía trước bia mộ được ốp tấm bia đá đen khắc ghi câu nói nổi tiếng của ông:"Truyện Kiều còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn".[10]

Tác phẩm

[sửa |sửa mã nguồn]

Ông là tác giả và dịch giả nhiều bài viết và sáchvăn học,triết học, cách ngôn,ngụ ngôn, tuồng hát tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt vàtùy bút. Gần như toàn bộ các tác phẩm của ông đều đăng trêntạp chí Nam Phong. Nhiều bài sau đó in lại thành sách do Đông Kinh ấn quán ởHà Nội xuất bản.

Các tác phẩm của ông có thể chia làm ba loại:

Dịch thuật

[sửa |sửa mã nguồn]

Bao gồm các tác phẩm luận thuyết,phương pháp luận, sách cách ngôn, kịch bản và thơ văn... Ông dịch các đoạn văn và tác phẩm từtiếng Pháp, chủ yếu thiên về triết học, như triết học củaDescartes. Tuy nhiên, ông cũng có dịch một số tác phẩm nghệ thuật như kịch củaCorneille.

Khảo luận

[sửa |sửa mã nguồn]

Phần quan trọng nhất trong các tác phẩm của Phạm Quỳnh là các tác phẩm khảo cứu[11]. Ông nghiên cứu trong các sáchchữ Nho, sách tiếng Pháp, và viết lại những bài chuyên khảo bằngtiếng Việt. Có ba ngành ông chú trọng là:

  • Các học thuyết Âu Tây, như trongVăn minh luận,Khảo về chính trị nước Pháp,Lịch sử và học thuyết củaRousseau,Lịch sử và học thuyết củaMontesquieu,Lịch sử và học thuyết củaVoltaire, v.v...
  • Học thuật Á Đông, những bài về triết học và tôn giáo Á Đông nhưPhật giáo lược khảo,Cái quan niệm người quân tử trong triết họcđạo Khổng,...
  • Văn hóa Việt Nam, với chủ đề trải rộng từTục ngữ ca dao, tớiViệt Nam thi ca, tớiVăn chương trong lốihát ả đào.

Nhiều tác phẩm của ông liên kết những học thuật Âu Tây và phân tích, so sánh chúng với các khái niệm quen thuộc của người Việt Nam. Như trong bàiCái quan niệm ngườiquân tử trong triết học đạo Khổng ông có phần phân tích và so sánh giữa quan niệm người quân tử của đạo Khổng và người "chính nhân" (là chữ ông dùng chol'honnête homme) trong văn hóa Pháp. Hay như ông có những bàiVăn hóa Pháp đối với tiền đồ nước Nam hoặcCông cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và khôi phục cổ điển ở nước Nam.

Văn du ký

[sửa |sửa mã nguồn]

Ông viết nhiều du ký ghi lại những điều quan sát, nhận định, nghị luận trong các chuyếndu lịch đi Pháp và đi các vùng đấtViệt Nam như:

  • Mười ngày ởHuế (1918)
  • Một tháng ởNam Kỳ (1919)
  • Pháp du hành trình nhật ký (1922)

Một số tác phẩm chính

[sửa |sửa mã nguồn]
Cái quan-niệm của người quân-tử trong triết-học Đạo Khổng in năm 1928
  • Văn minh luận
  • Ba tháng ởParis
  • Văn học nước Pháp
  • Chính trị nước Pháp
  • Khảo về tiểu thuyết
  • Lịch sử thế giới
  • Lịch sử và học thuyếtVoltaire
  • Phật giáo đại quan
  • Cái quan niệm của người quân tử trong Đạo Khổng
  • Thượng Chi văn tập gồm 5 quyển, Nhà xuất bảnAlexandre de Rhodes Hanoi ấn hành năm 1943.
  • Tục ngữ - Ca dao (1932) - Đông Kinh ấn quán.

Về sách in sau này ở Việt Nam

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Mười ngày ở Huế, Nhà xuất bản Văn học - 2001
  • Luận giải Văn học và Triết học, Nhà xuất bản Thông tin, 2001
  • Pháp du hành trình nhật ký,Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2004
  • Thượng Chi văn tập, Nhà xuất bản Văn học, 2007
  • Du ký Việt Nam,Nhà xuất bản Trẻ, 2007
  • Phạm Quỳnh - Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp, Nhà xuất bản Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932)

Ngoài sáu cuốn xuất bản sau này tại Việt Nam thì còn có cuốnHành trình nhật ký in lần thứ hai tạiSan Jose,Hoa Kỳ vào năm 2002 (in thành sách lần thứ nhất tại Paris năm 1997) gồm các du ký:Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ và Pháp du hành trình nhật ký.

Gia đình

[sửa |sửa mã nguồn]

Ông có một người vợ là bàLê Thị Vân (1892-1953) và 16 người con (3 người mất từ nhỏ). Trong đó:

Ngày sinh và mất

[sửa |sửa mã nguồn]

Về ngày sinh

[sửa |sửa mã nguồn]

Theo ông Nguyễn Thọ Dực, Trưởng ban Cổ văn, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa chính quyềnViệt Nam Cộng hòa thì hồi làm việc ở triều đình Huế, ông có được Phạm Quỳnh cho biết ngày sinh để nhờ lấy số tử vi là ngày 13 tháng 12 nămNhâm Thìn, tức ngày 30/1/1893.

Về ngày mất

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Sách"Từ điển Văn học bộ mới" (2004), ghi mất ngày20 tháng 8 năm 1945.
  • Một số tài liệu ghi mất ngày23 tháng 8 năm 1945, đúng ngày có người mời ông đến chính quyềnViệt Minh làm việc.
  • Một số tài liệu chép ông mất vào sáng ngày6 tháng 9 năm1945 (tức ngày 1 tháng 8 nămẤt Dậu; sau 14 ngày bị Việt Minh bắt).

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Phạm Thị Hoàn (biên tập) (1992).Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Phạm Quỳnh (1892~1992), tuyển tập và di cảo. An Tiêm (Paris).
  • David G. Marr (1984). "Language and Literacy".Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. University of California Press. tr. 150–175.

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^[1]Lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2007 tạiWayback MachineCó nhiều thông tin chưa thống nhất ngày mất của Phạm quỳnhLưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2007 tạiWayback Machine
  2. ^abNhững uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong
  3. ^Văn, Hội Nhà (ngày 4 tháng 9 năm 2021)."Giá trị văn học của Nam Phong tạp chí".Hội Nhà Văn Việt Nam. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2025.
  4. ^Sông Hương ngày 15 Tháng Tám 1936.
  5. ^Trở lại chuyện Phạm QuỳnhLưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2018 tạiWayback Machine, Tuần báo Văn Nghệ, 6/5/2017
  6. ^ChúngTa.com (29/06/2009)."Bản sao đã lưu trữ". ChúngTa.com. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2010. Truy cập 13/6/2010.Gia đình Phạm Quỳnh{{Chú thích báo}}:Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:|ngày truy cập=|ngày= (trợ giúp);Đã định rõ hơn một tham số trong|tên bài=|title= (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  7. ^Dương Quảng Hàm (1941).Việt Nam văn học sử yếu.
  8. ^Con người Phạm QuỳnhLưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2015 tạiWayback Machine, TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỔNG HỢP KHÁM PHÁ HUẾ, 20/10/2014.
  9. ^Phạm Tuyên,Lịch sử sẽ công bằng với cha tôi, 04/12/2007.
  10. ^"Khánh thành tượng nhà văn hóa Phạm Quỳnh".
  11. ^"Ông Phạm Quỳnh và phái Nam Phong".vanhoanghean.vn. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2025.

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềPhạm Quỳnh.
Wikisource có các tác phẩm của hoặc nói về:
Phạm Quỳnh
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Phạm_Quỳnh&oldid=74305698
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp