Phù Dư (chữ Hán: 扶餘) là một vương quốc cổ củangười Triều Tiên tồn tại từthế kỷ 2 trước công nguyên đến năm494 ở miền Bắcbán đảo Triều Tiên và miền NamMãn Châu ngày nay. Năm86 TCN,Dongbuyeo (Đông Phù Dư) được tách riêng ra khỏi Buyeo. Trước đó Buyeo cũ được gọi làBukbuyeo (Bắc Phù Dư), và được đổi thànhJolbon.
Baekje vào năm538 tự đổi tên thànhNambuyeo (Nam Phù Dư).
Vào khoảng năm238 TCN đến năm494 CN, người Phù Dư này đã xây dựng được những nhà nước của mình ở vùngMãn Châu. Nước này rộng khoảng 2 ngàn dặm (mỗi dặm thời Tam Quốc khoảng 450 m), ở phía BắcVạn Lý Trường Thành, giáp vớiCao Câu Ly ở phía Nam,Tiên Ti ở phía Tây,Ấp Lâu ở phía Đông.
Theo sử liệu Trung Quốc, người Phù Dư là dân tộc du mục, tính cách hòa bình, chân thành, thích ca múa uống rượu. Nước của người Phù Dư nằm trongquận Huyền Thố (Hyeon-To) thờiTiền Hán. Đếnthời Tam Quốc thì thuộc khu vực cai trị của họCông Tôn (Liêu Đông). Nước này sau đó bị người Tiên Ti tấn công, rồi bị diệt vong bởi tay ngườiVật Cát. Tuy nhiên, Bắc Phù Dư với tên gọi Đậu Mạc Lâu Quốc vẫn còn tồn tại đến tậnthời Đường. TheoNguỵ thư, tiếng của người Đậu Mạc Lâu Quốc không giống tiếng của người Vật Cát, mà giống tiếng củangười Khiết Đan.
Nếu xét tộc người Phù Dư theo nghĩa rộng bao gồm cả ngườiỐc Trở,Uế,Cao Câu Ly, thì lãnh địa của người Phù Dư không chỉ giới hạn ở Mãn Châu mà còn vươn tới vùng Tây Bắcbán đảo Triều Tiên.Bách Tế cũng có thể là một quốc gia của người Phù Dư. Năm 538, Bách Tế sau khi dời đô đã đổi quốc hiệu thành Nam Phù Dư. Các vua của Bách Tế cũng mang họ của người Phù Dư.