Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Peter II xứ Oldenburg

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Peter II
Đại công tước xứ Oldenburg
Tại vị27 tháng 2 năm 1853 – 13 tháng 6 năm 1900
Tiền nhiệmAugust
Kế nhiệmFriedrich August II
Thông tin chung
Sinh(1827-07-08)8 tháng 7 năm 1827
Oldenburg
Mất(1900-06-13)13 tháng 6 năm 1900 (72 tuổi)
Rastede
Phối ngẫu
Elisabeth xứ Sachsen-Altenburg
(cưới 1852⁠–⁠mất 1896)
Hậu duệFriedrich August II
Công tước Georg Ludwig
Tên đầy đủ
tiếng Đức:Nikolaus Friedrich Peter
Hoàng tộcVương tộc Holstein-Gottorp
Thân phụAugust
Thân mẫuIda xứ Anhalt-Bernburg-Schaumburg-Hoym
Tôn giáoTin Lành

Peter II (tiếng Đức:Nikolaus Friedrich Peter) (8 tháng 7 năm 1827 – 13 tháng 6 năm 1900) làĐại công tước trị vì của Oldenburg từ năm 1853 đến năm 1900. Ông tuyên bố quyền thừa kếCông quốc Holstein sauChiến tranh Schleswig lần thứ hai năm 1864. Sau khi ký một hiệp ước vào ngày 23 tháng 2 năm 1867 tạiKiel, ông đã từ bỏ các yêu sách của mình. Đổi lại, ông nhận được huyệnAhrensbök, các phần của Phổ thuộcGiáo phận vương quyền Lübeck trước đây ngoại trừ ngôi làngTravenhorst, và được Phổ bồi thường 1 triệu taler. Do đó, Đại công quốc Oldenburg đã có quyền tiếp cậnBiển Baltic.

Trước khi kế vị ngai vàng Đại công quốc Oldenburg, ông từng đượcSa hoàng Nikolai I đề nghị với chính phủ Đàn Mạch để cho ông thừa kế ngai vàng Đan Mạch sau khi dòng chính củaVương tộc Oldenburg tuyệt tự dòng nam. Nhưng sau đó, Nga và Đan Mạch đã rút lại đề nghị này.

Cuộc sống đầu đời

[sửa |sửa mã nguồn]

Nikolaus Friedrich Peter là con trai duy nhất củaAugust, Đại công tước xứ Oldenburg với người vợ thứ hai của ông làIda xứ Anhalt-Bernburg-Schaumburg-Hoym. Ông sinh ngày 8 tháng 7 năm 1827 tạiOldenburg.[1]

Ông nhận được một nền giáo dục nghiêm ngặt dành cho người thừa kế ngai vàng, từ năm 1846 đến năm 1848, ông đã học tạiĐại học Leipzig. KhiCách mạng 1848 nổ ra, gây ảnh hưởng lâu dài đến tư tưởng chính trị của ông, ông được triệu hồi về Oldenburg vào đầu tháng 3 năm 1848 để tạm thời đại diện cho cha mình.

Vào năm 1850, Peter có cơ hội được bầu lên ngai vàng Đan Mạch và do đó gia tăng đáng kể sức ảnh hưởng chính trị của mình. Theo đề nghị của Sa hoàngNikolai I của Nga, người có quan hệ họ hàng vớiVương tộc Oldenburg,Vương quốc Đan Mạch đã đề nghị ông kế vị ngai vàng khi dòng chính của vương tộc tuyệt tự dòng nam. Với lời đề nghị này, người Đan Mạch hy vọng rằng bằng cách bầu chọn một thân vương người Đức lên ngôi, họ có thể giải quyết đượcvấn đề Schleswig-Holstein và đảm bảo rằng hai công quốc Schleswig và Holstein sẽ vẫn là một phần của Đan Mạch. Đại công tước Paul Friedrich August đã nhiệt tình chấp nhận lời đề nghị này, điều sẽ mang lại cho gia đình ông uy tín đáng kể, ngay cả khi vấp phải sự phản đối của nội các chính phủ. Peter rõ ràng đã đánh giá những rủi ro chính trị một cách thực tế hơn và gắn sự chấp thuận của mình với một loạt các điều kiện tương đương với việc từ chối dự án. Sau đó, Đan Mạch và Nga đã rút lại lời đề nghị. Peter nhận được sự ủng hộ từ thủ tướng OldenburgDietrich Christian von Buttel, điều này đã gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị ở Đại công quốc.

Sau khi tình trạng bất ổn của cách mạng và cuộc khủng hoảng chính trị ban đầu lắng xuống, Peter, với tư cách là người thừa kế ngai vàng Oldenburg, đã có thể thực hiện chuyến đi công du bắt buộc đã bị hoãn lại trước đó, ông đếnBán đảo Ý vào năm 1850 và 1851, đếnVương quốc Hy Lạp (tháng 2–tháng 3 năm 1851)[2] để thăm chị gái mình,Vương hậu Amalie (1818–1875), và cuối cùng là đếnĐế quốc Ottoman (tháng 5–tháng 6 năm 1851).[3] Ở Ý, Peter đã đặt nền móng cho niềm đam mê mãnh liệt của mình đối với hội họa Ý, sau này ông dành vị trí chủ đạo trong bộ sưu tập tranh của mình.

Trị vì

[sửa |sửa mã nguồn]

Giai đoạn đầu

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngày 27 tháng 2 năm 1853, ông kế vị cha mình nắm quyền điều hành đất nước.[4] Peter cai trị một vùng đất có dân số khoảng 800.000 người.[4] Về mặt chính trị và nhân sự, Peter đại diện cho quan điểm thực tế và nỗ lực duy trì tính liên tục. Ông tiếp quản nội các và bộ trưởng của cha mình và tiếp tục định hướng chính sách đối ngoại của mình hướng tớiVương quốc Phổ, một chính sách mà ông không thấy có lựa chọn nào khác mặc dù có sự dè dặt và phản kháng từ môi trường xung quanh. Trong thời gian trị vì của ông, việc nhượng lại lãnh thổ mà sau này trở thànhWilhelmshaven của Phổ, vốn đã được chuẩn bị dưới thời Đại công tước Paul Friedrich August, đã được hoàn tất. Đổi lại, Phổ hỗ trợ về mặt tài chính và chính trị để trả lại các lãnh thổ cũ củaGia tộc BentinckLãnh địa Kniphausen (1858) vàVarel (1854) cho Oldenburg.

Năm 1864, Peter tiếp quản quyền bảo trợ của Hiệp hội Chăm sóc Thương binh, được thành lập tại Oldenburg, hoạt động như một hội cứu trợ tự nguyện củaHội Chữ thập đỏ tại Đại công quốc Oldenburg. Cùng năm đó, sau khi Hoàng đế Nga chuyển giao toàn bộ quyền thừa kếCông tước xứ Holstein-Gottorp cho ông, ông đã đưa ra yêu sách đối với cácCông quốc SchleswigHolstein. Peter dựa vào những tuyên bố về quyền kế vị thường gây tranh cãi, dựa trên những suy luận lịch sử-pháp lý phức tạp của người thừa kế ở Oldenburg làWilhelm Leverkus. Ông lập luận rằng sau khi triều đại Đan Mạch ở dòng dõi nam tuyệt tự, Nhà Holstein-Gottorp và do đó là Peter, với tư cách là hậu duệ của nhà này, sẽ có quyền thừa kế các công quốc. Peter đã bị thuyết phục bởi quan điểm này và sau nhiều năm nỗ lực, đã đạt được thỏa thuận rằng Sa hoàng chuyển giao cho ông các quyền của dòng dõi cũ của Nhà Holstein-Gottorp vào năm 1864. Peter đã chính thức đăng ký yêu sách của mình vớiBundestag củaBang liên Đức vào năm 1864. Tuy nhiên, phản ứng ở các công quốc, trong công chúng Đức và cả ở Oldenburg là tiêu cực, vì nỗ lực tìm kiếm một giải pháp hoàn toàn theo kiểu triều đại, không tính đến cả phong trào dân tộc lẫn lợi ích chính trị của các cường quốc, được coi là không có triển vọng thành công. Chỉ có Bismarck tạm thời ủng hộ Peter vì lý do chiến thuật, nhằm tạo thế đối trọng với ứng cử viên phổ biến làCông tước Friedrich xứ Holstein-Sonderburg-Augustenburg. Để không phải hoàn toàn tay trắng, Peter đã nhượng lại các yêu sách của mình cho Vương quốc Phổ vào năm 1866 và kýHiệp ước Kiel với Phổ vào ngày 23 tháng 2 năm 1867, theo đó ông nhận được Amt Ahrensbök như một khoản bồi thường cho việc từ bỏ quyền thừa kế của mình, trước đó đã chia cắt phần phía bắc và phía nam của Công quốc Oldenburg, Phổ cũng bồi thường 1 triệu thaler, mà Đại công tước dùng để mở rộng các điền trang của gia đình.

Oldenburg trong Liên bang Bắc Đức

[sửa |sửa mã nguồn]
Xu bạc: 1 thaler Oldenburg, mặt trước là chân dung của Đại công quốc Peter II, đúc năm 1866

Ông thực hiện chính sách nghiêng về Phổ, vì thế một liên minh quân sự được ký kết khiChiến tranh Áo-Phổ nổ ra năm 1866, trong quá trình đó Peter đã đưa lực lượng Oldenburg gia nhập Quân đội chính của Phổ. Để tưởng nhớ sự kiện này, ông đã tặng huy chương kỷ niệm cho chiến dịch năm 1866. Một mặt, hành động của ông bảo đảm sự tồn tại liên tục của Oldenburg như một quốc gia và mặt khác, với hiến pháp ngày 1 tháng 7 năm 1867, quy định việc đưaĐại công quốc Oldenburg gia nhậpLiên bang Bắc Đức và sau đó làĐế quốc Đức với tư cách là nhà nước đầu tiên gia nhập liên bang. Peter chấp nhận mất chủ quyền, chẳng hạn như việc từ bỏ chủ quyền quân sự, đi kèm với chính sách này.

Đại công tước đã tham gia vào lễTuyên bố của Đế chế Đức tạiVersailles vào ngày 18 tháng 1 năm 1871.[5][6]

Tuy nhiên, trong Liên bang Bắc Đức, Peter đã phản đối vị thế thống trị của Phổ và kiên quyết phản đối việc đưa ra quyền bỏ phiếu dân chủ cho Reichstag. Ngay từ năm 1866, ông đã đề xuất với vua Phổ rằng ông nên chấp nhận danh hiệu hoàng đế để giúp các thân vương Đức dễ dàng hòa nhập vào Liên bang Bắc Đức hơn bằng cách liên kết với truyền thống đế quốc cũ. Hơn nữa, Peter còn trình bày bản dự thảo hiến pháp của riêng mình cho Liên bang Bắc Đức, nội dung cốt lõi là thành lập thượng viện hoặc viện quý tộc. Một mặt, ông muốn tạo ra một thế lực bảo thủ đối trọng vớiReichstag được bầu cử dân chủ, mặt khác, muốn tạo ra một cơ quan liên bang chống lại sự thống trị của Phổ. Bản dự thảo của Peter khác với nhiều đề xuất của Viện Quý tộc được đưa vào cuộc tranh luận về hiến pháp năm 1866 và 1870/71, chủ yếu ở thành phần của Viện Quý tộc này. Tuy nhiên, Peter đã làm mất uy tín của kế hoạch này, vì ông muốn bổ nhiệm những đại diện là cácgiám mục vương quyền đãtrung gian hoá trước đây và các cựu bá tước đế chế củaThánh chế La Mã không còn tồn tại vào Viện bên cạnh các Thân vương cầm quyền. Ngoài ra, viện này cũng cần được trao những quyền tương tự như Reichstag. Do đó, bản dự thảo của ông hướng về quá khứ và gần như lãng mạn hoá, do đó không thể được mô tả là một giải pháp thay thế mang tính xây dựng về mặt chính trị cho hiến pháp của Bismarck.

Chính trị nội bộ

[sửa |sửa mã nguồn]
Tượng bán thân bằng đá cẩm thạch của Nikolaus Friedrich Peter đặt tạiLâu đài Eutin

Trong nội bộ triều đình Oldenburg từ năm 1850 trở đi, cách điều hành của Peter được định hình bởi sự kiên định với quyền lực triều đại và lịch sử cũng nhưchủ nghĩa bảo thủ sâu sắc. Chính vì vậy, ông thường xuyên mâu thuẫn với các trào lưu đương thời, chẳng hạn như tầng lớptư sản tự do ở Oldenburg. Theo tiểu sử gia Hans Friedl, ông "thấm nhuần sâu sắc vị trí của mình với tư cách là người cai trị đất nước, dựa trên quyền lực triều đại và nguyên tắc quân chủ", theo tinh thần của một "chế độ quân chủ được Chúa ban".

Năm 1852, ông cho sửa đổi Hiến pháp cơ bản của Oldenburg theo hướng bảo thủ, qua đó củng cố vị thế của bản thân cũng như chính phủ, đồng thời hạn chế ảnh hưởng của nghị viện. Peter từ chối mọi thay đổi tiếp theo đối với hiến pháp, đặc biệt là những thay đổi có thể mở rộng ảnh hưởng của nghị viện hoặc quyền tham gia quyết định của người dân, ví dụ như yêu cầu áp dụng chu kỳ ngân sách hàng năm. Ông cũng phản ứng mạnh mẽ khi nghị viện vượt quá thẩm quyền. Chẳng hạn, ông đã chỉ trích gay gắt kiến nghị bất tín nhiệm của nghị viện đối với hai bộ trưởng vào năm 1896 và công khai vinh danh những người bị chỉ trích. Để không tạo cơ hội cho nghị viện phản công, ông suốt đời từ chối việc tăng danh sách chi tiêu cá nhân (civil list) đã được xác lập khi ông lên ngôi.

Ngoài các phiên họp của Hội đồng Bộ trưởng và các báo cáo của các bộ trưởng, Peter còn tích cực nghiên cứu hồ sơ để có đóng góp cá nhân vào việc điều hành chính quyền cũng như theo dõi tình hình trong nước. Tuy nhiên, ông dường như không can thiệp trực tiếp vào quá trình ra quyết định hằng ngày, mà theo người bạn thân lâu năm Günther Jansen, ông trao cho các cố vấn và bộ trưởng quyền tự chủ tương đối lớn — nhưng vẫn không buông lỏng hoàn toàn quyền kiểm soát. Trong thời gian trị vì của Peter, việc thay đổi bộ trưởng diễn ra rất hiếm. Ngoại trừ những lãnh đoạ Bộ Quân sự (giải thể năm 1867), trong suốt 47 năm trị vì của ông chỉ có tổng cộng 10 bộ trưởng, phục vụ trong 4 chính phủ:Rössing (1853–1874),Berg (1874–1876),Ruhstrat (1876–1890) và Jansen (1890–1900). Thời gian trị vì lâu dài khác thường của Peter và sự ổn định nhân sự trong bộ máy lãnh đạo Đại Công quốc đã tạo ra một giai đoạn kéo dài của sự liên tục trong chính trị nội bộ. Tuy nhiên, về lâu dài, bất chấp những cải cách được tiến hành một cách thận trọng, hệ thống vẫn trở nên cứng nhắc và thiếu linh hoạt.

Quan hệ thân tộc và qua đời

[sửa |sửa mã nguồn]
Élisabeth xứ Sachsen-Altenbourg năm 1846, vẽ bởiJoseph Karl Stieler.

Gia đình Peter có quan hệ với hoàng thất Nga (cả hai đều là hậu duệ củaChristian Albrecht xứ Holstein-Gottorp), vì vậy ông đã đứng về phía Nga chống lạiĐế quốc Áo trongChiến tranh Krym. TrongChiến tranh Schleswig lần thứ nhất, ông đã tuyên bố chủ quyền đối với một phần lãnh thổ doVương quốc Phổ chiếm giữ, nhưng vào năm 1866 đã nhượng lại yêu sách của mình cho các công quốc.[1] Năm sau, ông đã tạo ra một hiệp ước quân sự với Phổ, trong đó quân đội của ông được hợp nhất vào quân đoàn của Thân vươngFriedrich Karl Nikolaus của Phổ trongChiến tranh Pháp-Phổ.[1]

Năm 1896, vợ ông là Elisabeth qua đời.[7] Bà qua đời một năm sau con dâu của họ làElisabeth Anna của Phổ.

Sau khi ông bị bệnh tim do làm việc quá sức, các bác sĩ của Peter đã khuyên ông nên đi một chuyến dài ra nước ngoài.[8] Ông qua đời vào năm sau, ngày 13 tháng 6 năm 1900 tại dinh thự mùa hè của mình ở Rastede.[1] Ông được kế vị bởi con trai cả của mình làFriedrich August, ông này trở thành vị đại công tước cuối cùng của xứ Oldenburg.

Hôn nhân và Hậu duệ

[sửa |sửa mã nguồn]

Đại công tước Peter II kết hôn từ ngày 10 tháng 2 năm 1852 với Công nữElisabeth Pauline Alexandrine (26 tháng 3 năm 1826 - 2 tháng 2 năm 1896), con gái thứ 3 của Công tướcJoseph xứ Sachsen-Altenburg (1789–1868) và Amalia xứ Württemberg.

Cuộc hôn nhân này sinh được 2 người con trai:

Vinh dự

[sửa |sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^abcd"Grand Duke of Oldenburg Dead",The New York Times, Berlin, ngày 14 tháng 6 năm 1900
  2. ^Siehe den Bericht aus Athen vom 4. März in derAugsburger Allgemeinen Zeitung, Nr. 81 vom 22. März 1851, S. 1294.
  3. ^Er traf in Konstantinopel, an Bord des griech. Regierungsdampfers „Otto“ aus Griechenland kommend, am 23. Mai ein, sieheWiener Zeitung, Nr. 136 vom 7. Juni 1851, S. 524.
  4. ^ab"Obituary",The New York Times, ngày 15 tháng 5 năm 1881
  5. ^Dr. Theodor Toeche-Mittler:Die Kaiserproklamation in Versailles am 18. Januar 1871 mit einem Verzeichniß der Festtheilnehmer,Ernst Siegfried Mittler & Sohn. Berlin 1896.
  6. ^Heinrich Schnaebeli:Fotoaufnahmen der Kaiserproklamation in Versailles. Berlin 1871.
  7. ^"Duchess of Oldenburg Dead",The New York Times, Berlin, ngày 3 tháng 2 năm 1896
  8. ^"Grand Duke of Oldenburg To Go Abroad",The New York Times, Berlin, ngày 29 tháng 12 năm 1899
  9. ^Staat Oldenburg (1852).Hof- und Staatshandbuch des Großherzogtums Oldenburg: für ... 1852. Schulze. tr. 24.
  10. ^Staatshandbuch für das Großherzogtum Sachsen / Sachsen-Weimar-Eisenach (1859), "Großherzogliche Hausorden"p. 12Lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2019 tạiWayback Machine
  11. ^Staatshandbücher für das Herzogtum Sachsen-Altenburg (1854), "Herzogliche Sachsen-Ernestinischer Hausorden"p. 21
  12. ^Hof- und Staats-Handbuch des Herzogtum Anhalt (1867) "Herzoglicher Haus-orden Albrecht des Bären" p.16
  13. ^"Königlich Preussische Ordensliste",Preussische Ordens-Liste (bằng tiếng German),1, Berlin:5,22, 1886{{Chú thích}}: Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  14. ^Bille-Hansen, A. C.; Holck, Harald, biên tập (1883) [1st pub.:1801].Statshaandbog for Kongeriget Danmark for Aaret 1883 [State Manual of the Kingdom of Denmark for the Year 1883](PDF). Kongelig Dansk Hof- og Statskalender (bằng tiếng Đan Mạch). Copenhagen: J.H. Schultz A.-S. Universitetsbogtrykkeri. tr. 3. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2020 – quada:DIS Danmark.
  15. ^Hof- und Staats-Handbuch des Großherzogtum Hessen (1879), "Großherzogliche Orden und Ehrenzeichen" p.10
  16. ^Hof- und Staats-Handbuch des Großherzogtum Baden (1869), "Großherzogliche Orden"pp. 54,64
  17. ^Hof- und Staats-Handbuch des Königreichs Bayern (bằng tiếng Đức). Königl. Oberpostamt. 1867. tr. 8.
  18. ^H. Tarlier (1854).Almanach royal officiel, publié, exécution d'un arrête du roi (bằng tiếng Pháp). Quyển 1. tr. 37.
  19. ^Hof- und Staats-Handbuch des Königreich Württemberg (1896), "Königliche Orden" p.27
  20. ^Staat Hannover (1865).Hof- und Staatshandbuch für das Königreich Hannover: 1865. Berenberg. tr. 38.
  21. ^"A Szent István Rend tagjai"Lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2010 tạiWayback Machine
  22. ^Staatshandbuch für den Freistaat Sachsen: 1877. Heinrich. 1877. tr. 3.

Thư mục

[sửa |sửa mã nguồn]

Weblinks

[sửa |sửa mã nguồn]
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Peter_II_xứ_Oldenburg&oldid=74491097
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp