Petar I (tiếng Serbia-Croatia:Петар I Карађорђевић,đã Latinh hoá: Petar I Karađorđević; 11 tháng 7(lịch cũ: 29 tháng 6) năm 1844 – 16 tháng 8 năm 1921) là Vua củaVương quốc Serbia từ ngày 15 tháng 6 năm 1903 đến ngày 1 tháng 12 năm 1918. Ngày 1 tháng 12 năm 1918, ông trở thành Vua củaVương quốc Serbia, Croatia và Slovenia, và ông giữ danh hiệu đó cho đến khi qua đời. Vì là vua của Serbia trong thời kỳ quân đội Serbia đạt được thành công lớn nên ông được người Serbia nhớ đến với cái tênVua Petar Người giải phóng và ông cũng có biệt hiệuVị vua già.
Sau khi VuaAlexander I của Vương tộc Obrenović bị sát hại trongCuộc đảo chính tháng 5 năm 1903, Petar Karađorđević trở thành vị vua mới của Serbia. Với tư cách là vua, ông chủ trương thiết lập hiến pháp cho đất nước và nổi tiếng với chính sách tự do của mình. Sự cai trị của Petar được đánh dấu bằng việc thực thi các quyền tự do chính trị, tự do báo chí, sự trỗi dậy của quốc gia, kinh tế và văn hóa, và đôi khi nó được mệnh danh là "thời kỳ hoàng kim" hay "thời kỳ Periclean".[1] Petar là chỉ huy tối cao củaQuân đội Hoàng gia Serbia trongChiến tranh Balkan. Vào ngày 24 tháng 6 năm 1914, vị vua già tuyên bố con trai và người thừa kế Alexander của ông lànhiếp chính vương. TrongThế chiến thứ nhất, Nhà vua và quân đội của ông hành quân khắpThân vương quốc Albania. Petar qua đời năm 1921 ở tuổi 77.
Petar sinh ra ởBelgrade vào ngày 11 tháng 7 [O.S. 29 tháng 6] 1844. Ông là con thứ 5 trong số 10 người con được sinh ra bởiThân vương Alexander Karađorđević và phối ngẫu của ông làPersida Nenadović.[2] Ông là cháu trai củaKarađorđe, người lãnh đạoCuộc nổi dậy lần thứ nhất của người Serbia (1804–1813) và là người sáng lậptriều đại Karađorđević.[3] Petar không sinh ra tại cung diện hoàng gia, nơi đang được cải tạo vào thời điểm đó, mà tại nhà của thương giaMiša Anastasijević. Sự ra đời của ông không mấy được quan tâm vì ông là con trai thứ ba và anh trai ông là Thân vương tử Svetozar là người thừa kế ngai vàng trong tương lai.[2]
Anh cả của ông là Thân vương tử Aleksa, đã qua đời 3 năm trước khi ông chào đời, mới 5 tuổi, lúc đó Thân vương tử Svetozar trở thành người thừa kế. Petar không trở thành người thừa kế cho đến khi Svetozar qua đời vào năm 1847 khi mới 6 tuổi.[4] Ngoài Belgrade, Petar đã trải qua phần lớn thời thơ ấu của mình ở thị trấnTopola, nơi bắt nguồn của triều đại Karađorđević. Ông học tiểu học ở Belgrade.[2]
Năm 1858, khi Petar 14 tuổi đang chuẩn bị lên đường đếnGeneva để học trung học, cha ông đã buộc phải thoái vị. Đối thủ củatriều đại Karađorđević làtriều đại Obrenović, đã được phục hồi, và một Thân vương thuộc Nhà Obrenović làMihailo, đã lên ngôi.[5] Hai triều đại đã tranh giành quyền lực kể từ năm 1817, khi Karađorđe bị ám sát theo lệnh củaMiloš Obrenović, người sáng lập ra triều đại Obrenović.[6]
Petar rời Geneva đếnParis vào năm 1861 và đăng ký vàoCollège Sainte-Barbe, tọa lạc tại trung tâmKhu phố Latinh của Paris. Năm sau, Petar đăng ký vàoHọc viện Lục quân Saint-Cyr, học viện quân sự danh giá nhất của Pháp. Ông tốt nghiệp học viện vào năm 1864 và tiếp tục sống ở Paris một thời gian sau đó. Trong thời gian này, ông theo đuổi các sở thích như nhiếp ảnh và hội họa, và đọc các tác phẩm triết học chính trị, tìm hiểu về chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa nghị viện và dân chủ. Năm 1866, ông vào Trường Quân sự Cao cấp ởMetz, nơi ông theo học cho đến năm sau.[5] Hai năm sau, bản dịch tiếng Serbia của ông về tác phẩmBàn về tự do củaJohn Stuart Mill được xuất bản.[7]
KhiChiến tranh Pháp-Phổ 1870–1871 nổ ra, Petar gia nhậpBinh đoàn Lê dương Pháp dưới tên giả Petar Kara, cùng với người họ hàng là Nikola Nikolajević.[5] Trong thời gian phục vụ, Petar giữ cấp bậc trung úy[5] hoặc trung úy hai,[8] tùy thuộc vào nguồn tin, và chiến đấu trong Trung đoàn Lê dương số 1.[8] Ông tham giaTrận Orléans lần thứ hai vào ngày 3–4 tháng 12 năm 1870, cũng nhưTrận Villersexel vào ngày 9 tháng 1 năm 1871. Ông được trao tặngHuân chương Bắc đẩu Bội tinh vì hành vi của mình trong hai trận chiến, nhưng đã bị quân Phổ bắt giữ ngay sau đó. Ông đã trốn thoát khỏi nơi giam cầm và trở lại mặt trận. Pyotr đã tham gia vàoCông xã Paris vào mùa xuân năm 1871, cùng với người bạn thân Vladimir Ljotić, mặc dù bản chất chính xác của việc ông tham gia vẫn chưa được biết.[5]
Ông đếnBosanska Dubica vào tháng 8 năm 1875, nhưng nhận được sự chào đón lạnh nhạt. Ông phát hiện ra rằng Thân vươngMilan I xứ Serbia đang âm mưu ám sát ông vì lo sợ Petar sẽ cố gắng giành lại ngai vàng từtriều đại Obrenović. Sự tiết lộ này, kết hợp với một loạt thất bại trên chiến trường, đã buộc Petar và những người theo ông phải rời khỏi Bosnia và rút lui về Áo-Hung.[9]
Sau đó, họ bị Quân đội Áo-Hung giam giữ tại làng Bojna, gầnGlina. Petar đã trốn thoát, trở về Bosnia và tổ chức một nhóm phiến quân khác. Một lần nữa, sự tham gia của ông vào cuộc chiến đã gây ra sự nghi ngờ ởBelgrade, và đến tháng 5 năm 1876, sự hiện diện của ông đã gây chia rẽ. Những người nổi loạn chia thành ba phe riêng biệt: một phe ủng hộ Petar, một phe ủng hộ Milan và phe thứ ba ủng hộ trọng tài Áo-Hung. Không muốn gây thêm chia rẽ giữa những người nổi loạn, Petar đã đồng ý rời khỏi Bosnia. Trước khi rời đi, ông đã viết một lá thư cho Milan giải thích lý do tại sao ông rời khỏi chiến trường và đề nghị làm hòa với triều đại Obrenović.[9]
Bất chấp những nỗ lực làm hòa với Milan, những cáo buộc về tội phản quốc vẫn tiếp tục được đưa ra chống lại Petar. Ông quyết định đếnKragujevac, trụ sở của Chính phủ Hoàng gia Serbia và phát biểu trước Quốc hội để cố gắng minh oan cho mình. Năm 1877, một cuộc nổi loạn chống chính phủ nổ ra ở vùngToplica thuộc miền nam Serbia, Milan đổ lỗi cho Petar và những người ủng hộtriều đại Karađorđević. Petar bị buộc tội phản bội và hợp tác với người Ottoman.[9]
Vào mùa hè năm 1878, ông đã vượt biên trái phép giữa Serbia và Áo-Hung tạiGolubac qua sôngDanube. Petar và người hướng dẫn của ông đã bị lạc ởdãy núi Homolje và buộc phải trốn tránh chính quyền trong vùng hoang dã. Petar trở về Áo-Hung ngay sau đó, nhưng đã bị cảnh sát Áo-Hung bắt giữ và giam giữ tại nhà của gia đình Karađorđević ởBokszeg. Năm 1878, ông được phép rời Bokszeg. Đầu tiên, ông đếnBudapest và sau đó đếnParis. Trong thời gian này, ông bị các điệp viên Áo-Hung theo dõi chặt chẽ, những người đã ghi lại mọi hành động của ông.[9]
Vào tháng 1 năm 1879, các thủ tục tố tụng tại tòa án đã được khởi xướng chống lại Petar và những người bạn thân nhất của ông tạiSmederevo. Nguyên đơn là Thân vương Milan, cáo buộc rằng Petar và những người theo ông đã cố gắng lật đổ triều đại Obrenović và đưa một người thuộc triều đại Karađorđević lên ngôi. Petar và những người bạn đồng hành của ông bị buộc tộiphản quốc, hình phạt bắt buộc là tử hình. Vì đang sống ở Paris vào thời điểm diễn ra phiên tòa, Petar bị kết án vắng mặt và bị tuyên án tử hình bằng cáchtreo cổ.[10]
Petar(ngoài cùng bên trái, đứng) cùng gia đình ởCetinje, khoảng năm 1890
Trong thời gian lưu vong, Petar đã có mong muốn cầu hônFeodora của Sachsen-Meiningen, cháu gái củaHoàng đế Wilhelm II, người kém ông 36 tuổi, mặc dù đây có thể là một nỗ lực để giành được sự ủng hộ của Hoàng đế Đức để kế vị ngai vàng Serbia. Mẹ của bà là Vương nữCharlotte của Phổ tuyên bố rằng "đối với một ngai vàng như vậy, Feodora là quá tốt".[11] Sau nỗ lực bất thành này, Petar chuyển đếnCetinje vào năm 1883, thủ đô của nhà nước người Serb độc lập thứ hai,Thân vương quốc Montenegro, với ý định kết hôn với con gái cả của người cai trị Montenegro,Thân vương Nicholas I. Petar và Thân vương nữLjubica xứ Montenegro đã kết hôn tại Cetinje vào mùa hè năm 1883. Cuộc hôn nhân đã làm đảo lộn sự cân bằng địa chính trị bất ổn của khu vực, gây ra sự bất an lớn ở các thủ đô Áo-Hung, Nga và Serbia. Belgrade coi đó là dấu hiệu cho thấy sự gần gũi ngày càng tăng giữatriều đại Petrović-Njegoš và Karađorđević. Mối quan hệ giữa hai quốc gia Serbia và Montenegro trở nên tồi tệ hơn, cũng như mối quan hệ giữa Áo-Hung và Nga, vốn đã tranh giành quyền lực ở Balkan trong nhiều thập kỷ.[10]
Khi cha ông qua đời vào mùa xuân năm 1885, Petar trở thành người đứng đầu Nhà Karađorđević. Serbia, trước đây là một thân vương quốc, được tuyên bố là một vương quốc vào năm 1882, và kể từ đó, quốc vương Serbia sử dụng danh hiệu là Vua của Serbia. Ljubica qua đời trong khi sinh con vào tháng 3 năm 1890. Cặp đôi có 5 người con, trong đó có 3 người đã trưởng thành:Helen (Jelena), Milena,George (Đorđe),Alexander (Aleksandar) và Andrew (Andrej). Milena qua đời khi còn nhỏ và Andrew cũng qua đời cùng mẹ trong khi sinh.[10]
Sau cái chết của cha mình, tình hình tài chính của Petar trở nên tồi tệ hơn và ông trở nên phụ thuộc vào cha vợ, cũng như Đế chế Nga và anh trai George, để được hỗ trợ. Sau khi Quân đội Hoàng gia Serbia thất bại trongChiến tranh Serbia-Bulgaria năm 1885, Petar và Nicholas đã vạch ra một kế hoạch xâm lược Serbia và lật đổtriều đại Obrenović. Vào phút cuối, Nicholas đã từ bỏ ý định này. Petar cảm thấy bị phản bội bởi quyết định rút lui của cha vợ, dẫn đến sự thù địch kéo dài. Tuy nhiên, ông vẫn ở lại Cetinje cho đến năm 1894, dành thời gian chăm sóc những đứa con của mình, và những đứa trẻ đã hoàn thành chương trình tiểu học tại đó.[10]
Năm 1894, Petar chuyển đến Geneva cùng 3 người con, nơi ông ở lại cho đến năm 1903.[12] Năm 1899,Nga hoàng Nicholas II đã mời Thân vương tử George và Thân vương tử Alexander, cũng như cháu trai của Petar làPaul, đến học tại học viện quân sựPage Corps ởSaint Petersburg. Do tình hình tài chính bấp bênh, khiến ông không thể cho các con trai đến trường tư ở Thụy Sĩ, Petar đã chấp nhận lời đề nghị của Sa hoàng, vì chương trình học được đài thọ hoàn toàn bởi triều đình Đế chế Nga.[13]
Một bức tranh minh họa củaAchille Beltrame nhân dịp lễ đăng quang của Petar I
Vào tháng 7 năm 1900,Vua Alexander, con trai 23 tuổi của cựu vương Milan, đã kết hôn vớiDraga Mašin, một cung nữ góa chồng hơn ông 12 tuổi và nổi tiếng là lăng nhăng. Người ta cũng tin rằng Mašin vô sinh, làm dấy lên câu hỏi về khả năng tồn tại của dòng họ Obrenović. Cuộc hôn nhân đã gây ra sự phẫn nộ trong quân đoàn sĩ quan và dẫn đến một âm mưu phế truất Alexander khỏi ngai vàng. Các sĩ quan, doDragutin Dimitrijević ("Apis") chỉ huy, ban đầu tìm cách trục xuất Alexander và Draga nhưng nhận ra rằng làm như vậy sẽ gây ra xung đột giữa phe ủng hộ Karađorđević và phe ủng hộ Obrenović trong nước.[14]
Đến mùa thu năm 1901, những kẻ chủ mưu đã quyết định ám sát Vua và Vương hậu, qua đó ngăn chặn một cuộc nội chiến có thể xảy ra ở Serbia. Một số sĩ quan đề xuất đưa một Vương tử Anh hoặc Đức lên ngôi. Một người khác đề xuấtMorko xứ MontenegroThân vương tử Mirko, con trai thứ hai của Nicholas xứ Montenegro, và những người khác ủng hộ việc thành lập một nước cộng hòa.[14] Các điều kiện chính trị ở châu Âu là như vậy mà việc tuyên bố một nước cộng hòa sẽ chỉ làm tăng thêm sự tức giận của các cường quốc đối với Serbia trong trường hợp Alexander bị lật đổ, tạo choÁo-Hung một cái cớ để xâm lược.[15]
Các hoạt động chuẩn bị cho cuộc đảo chính diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 1901 đến năm 1903. Những kẻ chủ mưu quyết định đưa Petar lên ngôi vào tháng 11 năm 1901, nhưng Petar không mấy tin tưởng họ và những lời đề nghị ban đầu của họ đã bị từ chối. Ông chấp nhận lời đề nghị của họ với điều kiện là các sĩ quan mà ông tin tưởng sẽ tham gia vào âm mưu và khẳng định rằng ông sẽ không tham gia bất kỳ phần nào. Ông cũng nói với các sĩ quan rằng ông sẽ đồng ý lên ngôi chỉ khi việc lên ngôi của ông được Quốc hội chấp thuận.[12]
Vào thời điểm xảy ra cuộc đảo chính, Petar đang đi nghỉ cùng các con và lên kế hoạch thăm Nga và Romania, điều này cho thấy ông không biết chuyện gì sắp xảy ra.[12] Các sĩ quan đãđột kích cung điện hoàng gia vào đêm muộn ngày 10 tháng 6 [O.S. 29 tháng 5] năm 1903 và bắn chết Nhà vua và Vương hậu, cắt xác họ bằng kiếm và ném xuống từ ban công tầng ba.[16] Các vụ ám sát đã dẫn đến sự tuyệt tự củatriều đại Obrenović và giải quyết mối thù kéo dài hàng thế kỷ giữa hai triều đại Karađorđević và Obrenović.[15]
Petar bày tỏ sự hài lòng với kết quả của âm mưu, cũng như hối tiếc về vụ đổ máu đã xảy ra, mô tả nó là "không phải là quý ông, cũng không xứng đáng với thế kỷ XX". Vào ngày 15 tháng 6 [O.S. 2 tháng 6] năm 1903, theo quyết định của Quốc hội, Petar được triệu tập để lên ngôi vua Serbia.[12] Ông đến Belgrade vào ngày 26 tháng 6 [O.S. 13 tháng 6] năm 1903.[17]
Việc Petar lên ngôi được những người theo chủ nghĩa dân tộc Nam Slav đón nhận nồng nhiệt, họ tin rằng ông sẽ thành công trong việc thống nhất những người Nam Slav sống ở Serbia, Montenegro, Áo-Hung và Đế chế Ottoman. TạiViên, trên đường đến Belgrade, ông được một đám đông sinh viên người Serbia và Croatia hân hoan chào đón, họ ca ngợi ông là "vị vua Nam Tư đầu tiên".[17]
Vụ ám sát cặp đôi hoàng gia đã làm chấn động hầu hết châu Âu, nhưng nhiều người Serbia đã phản ứng rất nhiệt tình.[18]Đế quốc Nga ngay lập tức công nhận quyết định của Quốc hội tuyên bố Petar là Vua tiếp theo củaVương quốc Serbia và bày tỏ sự hài lòng rằng những âm mưu giữa các triều đại đã gây rắc rối cho đất nước kể từ đầu thế kỷ XIX đã chấm dứt. Đế chếÁo-Hung tuyên bố trung lập về vấn đề này, nhưng các nhà hoạch định chính sách ởViên bày tỏ hy vọng rằng việc Petar lên ngôi sẽ có tác dụng xoa dịu.[19]
Vương quốc Anh yêu cầu trừng phạt nghiêm khắc những kẻ chủ mưu, và khi Chính phủ Hoàng gia Serbia không thực hiện yêu cầu này, Anh đã cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao.[19] Một số quốc gia châu Âu khác đã đi theo bước chân của Vương quốc Anh và cũng cắt đứt quan hệ.[20] Petar không có đủ quyền lực hoặc thẩm quyền để trừng phạt những kẻ chủ mưu. Ông cũng cảm thấy có nghĩa vụ sâu sắc đối với họ, thừa nhận rằng ông sẽ không thể lên ngôi nếu không có hành động của họ.[19]
Petar được trao vương miện tạiNhà thờ St. Michael ởBelgrade, vào ngày 21 tháng 9 [O.S. 8 tháng 9] năm 1904.[21] Lễ đăng quang, lễ đầu tiên trong lịch sử hiện đại của Serbia, nhằm mục đích chứng minh rằng một kỷ nguyên mới đã bắt đầu.[18] Khoảng thời gian một năm giữa khi Petar trở về Serbia và lễ đăng quang của ông cố tình trùng với lễ kỷ niệm 100 năm Cuộc nổi dậy Serbia lần thứ nhất với hy vọng cho các chính khách châu Âu thời gian để chấp nhận cuộc đảo chính cung điện.[18] Tuy nhiên, chỉ có đại diện củaThân vương quốc Montenegro vàVương quốc Bulgaria tham dự.[21]
Bộ lễ phục hoàng gia mới, bao gồm vương miện, vương trượng, quả cầu và áo choàng hoàng gia, được đặt làm riêng cho dịp này từ thợ kim hoàn Falize Frères ở Paris.[22]Arnold Muir Wilson, lãnh sự danh dự của Serbia tạiSheffield, và người quay phim của ông,Frank Mottershaw, đã quay cảnh rước vua Petar và một cuộc diễu hành sau lễ đăng quang. Đây là bộ phim lâu đời nhất còn sót lại được ghi lại ở Belgrade.[23] Theo nhà sử học điện ảnhPaul Smith, đây cũng có thể là bản tin thời sự đầu tiên trong lịch sử.[24]
Sau khi lên ngôi, vua Petar I đã cố gắng tạo ra một chế độ quân chủ lập hiến theo kiểu phương Tây cho Serbia. Mặc dù có những ảnh hưởng nhất định của những phe nhóm quân sự vào chính trị, vua Petar I đã dần giúp cho nền dân chủ nghị viện được hoạt động bình thường.Hiến pháp 1903 sửa đổi Hiến pháp 1888 dựa trênHiến pháp của Bỉ 1831, được đánh giá là một trong bản hiến pháp tự do nhất tại châu Âu. Chính phủ được thành lập bởi các thành viên quốc hội chủ yếu từ Đảng Nhân dân Cấp tiến (Narodna radikalna Stránka) của Nikola P. Pašić và Đảng Cấp Tiến Độc lập của Ljubomir Stojanovic. Bản thân vua Petar ủng hộ một chính phủ liên minh rộng rãi hơn sẽ thúc đẩy nền dân chủ Serbia và có thể có được chính sách đối ngoại độc lập.
Bản thân Vua Petar ủng hộ ý tưởng về một chính phủ liên minh rộng lớn hơn sẽ thúc đẩy nền dân chủ Serbia và giúp theo đuổi một lộ trình độc lập trong chính sách đối ngoại. Trái ngược vớitriều đại Obrenović thân Áo, Vua Petar I dựa vào Nga và Pháp, điều này đã gây ra sự thù địch ngày càng tăng từÁo-Hung có tư tưởng bành trướng. Vua Petar I đã có hai chuyến thăm long trọng tớiSaint-Petersburg vàParis vào năm 1910 và 1911, để được chào đón như một anh hùng của nền dân chủ và nền độc lập dân tộc ở vùngBalkan đầy rắc rối.
Triều đại của Petar I, từ năm 1903 đến năm 1914, được ghi nhớ là"Thời kỳ hoàng kim của Serbia", do các quyền tự do chính trị không bị hạn chế, báo chí tự do và sự thống trị về văn hóa trong số những người Nam Slav, những người cuối cùng đã nhìn thấy ở Serbia dân chủ một Piedmont củaNgười Slav Nam.[25] Vua Petar I ủng hộ phong trào thống nhất Nam Tư, tổ chức nhiều cuộc tụ họp văn hóa khác nhau tạiBelgrade. Trường Belgrade được nâng cấp thànhĐại học Belgrade vào năm 1905, với các học giả nổi tiếng quốc tế nhưJovan Cvijić,Mihailo Petrović,Slobodan Jovanović, Jovan M. Žujović,Bogdan Popović,Jovan Skerlić,Sima Lozanić,Branislav Petronijević và một số người khác.
Vua Petar I đã trở nên vô cùng nổi tiếng sau các cuộcChiến tranh Balkan năm 1912 và 1913, theo quan điểm của người Serbia và Nam Slav, đã chứng tỏ là rất thành công, được báo trước bằng những chiến thắng quân sự ngoạn mục trước người Ottoman, tiếp theo là sự giải phóng "Cựu Serbia" (Kosovo Vilayet) và Macedonia (Manastir Vilayet).
Lãnh thổ của Serbia tăng gấp đôi và uy tín của nhà vua trong số người Nam Slav (đặc biệt làngười Croatia vàngười Slovenia, và trong số người Serbia ở Áo-Hungary,Bosnia-Herzegovina,Vojvodina,Biên giới quân sự,Dalmatia,Slavonia, v.v.) đã phát triển đáng kể, với Petar I là biểu tượng chính của cả thành công về chính trị và văn hóa. Sau cuộc xung đột giữa các đại diện quân sự và dân sự vào mùa xuân năm 1914, Vua Petar đã chọn "nghỉ hưu" vì sức khỏe yếu, chuyển giao lại các đặc quyền hoàng gia của mình vào ngày 11/24 tháng 6 năm 1914 cho người con trai thứ hai của mình là Vương thái tử Alexander.
Thủ tướng nổi tiếng nhất trong thời kỳ trị vì của Petar I làNikola Pašić. Vào đầu thời kỳ trị vì của Petar, Pašić đã phản đối nhà vua mới, gọi việc ông lên ngôi là bất hợp pháp. Tuy nhiên, ông đã nhanh chóng thay đổi quyết định sau khi thấy rằng người dân Serbia chấp nhận Vua Petar. Hóa ra, mâu thuẫn duy nhất của ông với Petar trong suốt 18 năm trị vì liên quan đến tiền lương của nhà vua.
Petar I của Serbia coi Đế quốc Nga là đồng minh chính của Serbia. Nga phản đối chính sách trước đây củatriều đại Obrenović vốn phụ thuộc nhiều vàoÁo-Hung, điều mà công chúng Serbia ghét cay ghét đắng.[26]
Chiến tranh Balkan lần thứ nhất bắt đầu vào tháng 10 năm 1912 và kết thúc vào tháng 5 năm 1913. Chiến tranh này liên quan đến các hành động quân sự củaLiên minh Balkan (Vương quốc Bulgaria,Vương quốc Serbia,Vương quốc Hy Lạp vàVương quốc Montenegro) chống lạiĐế quốc Ottoman. Quân đội liên hợp của các quốc gia Balkan đã đánh bại quân đội Ottoman yếu thế về quân số và bất lợi về mặt chiến lược và đạt được thành công nhanh chóng. Kết quả của cuộc chiến là các đồng minh đã chiếm và phân chia hầu hết các vùng lãnh thổ châu Âu còn lại của Đế chế Ottoman.
Vào tháng 5 năm 1912, những người cách mạng Hamidian Albania, những người muốn đưa SultanAbdul Hamit II lên nắm quyền, đã đẩy lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ Trẻ ra khỏiSkopje và tiến về phía nam hướng tới Manastir (ngày nay làBitola), buộc Thổ Nhĩ Kỳ Trẻ phải trao quyền tự chủ thực sự cho các khu vực rộng lớn vào tháng 6 năm 1912. Serbia, quốc gia đã giúp vũ trang cho quân nổi loạn Công giáo Albania và Hamidian và đã cử các điệp viên bí mật đến gặp một số nhà lãnh đạo nổi tiếng, đã coi cuộc nổi loạn này là cái cớ để chiến tranh. Serbia, Montenegro, Hy Lạp và Bulgaria đều đã đàm phán về các cuộc tấn công có thể xảy ra chống lại Đế chế Ottoman trước khi cuộc nổi loạn của người Albania năm 1912 nổ ra; một thỏa thuận chính thức giữa Serbia và Montenegro đã được ký kết vào ngày 7 tháng 3.
Vào ngày 18 tháng 10 năm 1912, Petar I của Serbia đã ban hành một tuyên bố, "Gửi đến Nhân dân Serbia", có vẻ như ủng hộ cả người Albania và người Serbia:
"Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ không quan tâm đến nghĩa vụ của họ đối với công dân và làm ngơ trước mọi lời phàn nàn và đề xuất. Mọi thứ trở nên mất kiểm soát đến mức không ai hài lòng với tình hình ở lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kỳ tại châu Âu. Nó trở nên không thể chịu đựng được đối với người Serbia, người Hy Lạp và cả người Albania nữa. Nhờ ân điển của Chúa, do đó tôi đã ra lệnh cho quân đội dũng cảm của mình tham gia vào cuộc Thánh chiến để giải phóng anh em chúng ta và đảm bảo một tương lai tốt đẹp hơn. Ở Serbia Cũ, quân đội của tôi sẽ gặp không chỉ người Serbia theo đạo Thiên chúa mà còn gặp người Serbia theo đạo Hồi, những người mà chúng tôi cũng rất yêu quý, và ngoài họ ra, còn gặp cả người Albania theo đạo Thiên chúa và đạo Hồi giáo mà nhân dân chúng tôi đã cùng chia sẻ niềm vui và nỗi buồn trong 13 thế kỷ nay. Chúng tôi mang đến cho tất cả họ sự tự do, tình anh em và bình đẳng."
Trong quá trình tìm kiếm đồng minh, Serbia đã đàm phán một hiệp ước với Bulgaria. Thỏa thuận quy định rằng, trong trường hợp chiến thắng trước người Ottoman, Bulgaria sẽ nhận được toàn bộMacedonia ở phía nam ranh giớiKriva Palanka-Ohrid. Bulgaria chấp nhận sự mở rộng của Serbia về phía bắc dãy núi Shar (tức làKosovo). Khu vực can thiệp được thống nhất là "có tranh chấp"; khu vực này sẽ được phân xử bởi Hoàng đế Nga trong trường hợp chiến tranh thành công chống lại Đế chế Ottoman. Trong suốt quá trình chiến tranh, rõ ràng là người Albania không coi Serbia là người giải phóng, như Vua Petar I đã gợi ý, và lực lượng Serbia cũng không tuân thủ tuyên bố hữu nghị của ông đối với người Albania.
Petar I chỉ huy quân đội Serbia cùng với các thống chế nhưRadomir Putnik,Stepa Stepanović,Božidar Janković vàPetar Bojović. Serbia đã gửi 230.000 quân (trong tổng số dân chỉ 2.912.000 quân) với khoảng 228 khẩu súng, chia thành 10 sư đoàn bộ binh.
Không hài lòng với phần chiến lợi phẩm của mình trongChiến tranh Balkan lần thứ nhất, Vương quốc Bulgaria đã tấn công các đồng minh cũ của mình là Serbia và Hy Lạp, và bắt đầuChiến tranh Balkan lần thứ hai vào ngày 16 (O.S.)/29 tháng 6 năm 1913. Quân đội Serbia và Hy Lạp đã đẩy lùi cuộc tấn công của Bulgaria và phản công, tiến vào Bulgaria. Với việc Bulgaria cũng tham gia vào các tranh chấp lãnh thổ vớiVương quốc Romania, cuộc chiến này đã kích động sự can thiệp của Romania vào Bulgaria. Đế chế Ottoman đã lợi dụng tình hình để giành lại một số lãnh thổ đã mất do cuộc chiến trước đó.
Khi quân đội Romania tiến đến thủ đôSofia của Bulgaria, Bulgaria đã yêu cầu đình chiến, dẫn đếnHiệp ước Bucharest năm 1913, trong đó Bulgaria phải nhượng lại một phần chiến lợi phẩm trong Chiến tranh Balkan lần thứ nhất cho Serbia, Hy Lạp và Romania. Chiến tranh Balkan lần thứ hai đã khiến Serbia trở thành quốc gia hùng mạnh nhất về mặt quân sự ở phía namsông Danube. Nhiều năm đầu tư quân sự được tài trợ bằng các khoản vay của Pháp đã mang lại kết quả. TrungVardar và nửa phía đông củaSanjak củaNovi Pazar đã được mua lại. Lãnh thổ của nó mở rộng từ 18.650 lên 33.891 dặm vuông và dân số tăng hơn một triệu rưỡi.
Do những nỗ lực liên tục và mạnh mẽ của ông trong Chiến tranh Balkan, sức khỏe của Petar ngày càng xấu đi. Cùng lúc đó,Black Hand đại diện cho một nhóm quân sự đối lập cốt lõi với Quốc hội. Hành động từ bên trong chính phủ và quân đội, các thành viên của Black Hand đã buộc Petar phải giải tán chính phủ củaNikola Pašić, mặc dù Đảng Cấp tiến nắm giữ hầu hết các ghế trong Quốc hội. Chỉ sau khi có sự can thiệp của Nga và với sự giúp đỡ của Pháp, cuộc khủng hoảng mới được giải quyết theo hướng có lợi cho Pašić. Vua Petar phải rút lui, được cho là do sức khỏe yếu, và vào ngày 24 tháng 6 năm 1914, ông đã chuyển giao quyền lực và nhiệm vụ hoàng gia của mình cho người thừa kế rõ ràng,Vương thái tử Alexander.
Nguyên nhân trực tiếp Đế quốcÁo-Hung tuyên chiến vớiVương quốc Serbia cũng như lý do khiến Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ chính làvụ ám sát thái tử Áo-HungFranz Ferdinand tạiSarajevo,Bosna & Herzegovina thuộc Áo. Ngày 28 tháng 6 năm 1914, thái tử Franz Ferdinan bị một số thành viên của Tổ chứcBàn tay đen có trụ sở tại Belgrade, Serbia thực hiện kế hoạch ám sát tại Sarajevo. Chính phủ Áo-Hung đã gửi tối hậu thư cho Vương quốc Serbia vào ngày 23 tháng 7 với cáo buộc nước này đã lên kế hoạch cho cuộc ám sát.[27] Tối 25 tháng 7, Serbia gửi thư phản hồi đến đại sứ Áo-Hung với mong muốn hòa giải cuộc xung đột nhưng Áo-Hung vẫn không chấp thuận và tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Serbia.[28] Ngày 28 tháng 7 năm 1914, Áo-Hung tuyên chiến với Serbia và trong cùng ngày hôm đó người Serbia đã phá hủy toàn bộ các cây cầu bắc qua sôngSava vàDanube để ngăn việc Áo-Hung sử dụng chúng để tấn công nước này.[29] Một ngày sau đó, Beograd bị pháo kích, Chiến tranh thế giới thứ nhất chính thức bùng nổ.[30] Serbia nếu tổng động viên đầy đủ sẽ có 450.000 quân, lực lượng chính đối đầu với Áo-Hung là bốn tập đoàn quân 1, 2, 3 và Užice, tổng quân số 180.000 người, nhưng quân đội Serbia đang trong quá trình hồi phục vì hao tổn khá nhiều trong 2 cuộc chiến tranh Balkan.[31] Quân Áo-Hung có 200.000 quân và vũ khí thì hiện đại hơn.
Nhà vua đã nghỉ hưu, dành phần lớn thời gian của mình ở nhiều khu nghỉ dưỡng của Serbia, không giúp được gì nhiều trongThế chiến thứ nhất, nhưng trên thực tế, ông lại là một biểu tượng sống có giá trị nâng cao sĩ khí của quân dân Serbia, khi tình hình quân sự trở nên nghiêm trọng, ông đã đến thăm các chiến hào ở tiền tuyến để kiểm tra tinh thần của quân lính. Chuyến thăm của ông đến tuyến hỏa lực trướcTrận Kolubara vào cuối năm 1914 đã thúc đẩy tinh thần của lực lượng Serbia đang rút lui và tuyên bố một cuộc phản công, tạo nên chiến thắng trước lực lượngÁo-Hung vượt trội về số lượng (tháng 12 năm 1914). Một chuyến thăm đáng nhớ khác vào năm 1915 là chuyến thăm của Vua Petar, khi đó đã 71 tuổi, ông vẫn cầm súng trường và bắn vào quân địch. Sau cuộc xâm lược Serbia của liên quân Đức, Áo-Hung và Bulgaria vào tháng 10 năm 1915, Vua Petar I đã chỉ huy quân đội và hàng chục nghìn người tị nạn dân sự qua những ngọn núi cao của Albania đếnbiển Adriatic trên một "con đường Calvary mà ít người biết đến".[32]
Sau cuộc rút lui đầy kịch tính trong một mùa đông khắc nghiệt của vùng cao nguyên Albania từPrizren đến vùng ven biển Albania, một cuộc hành quân đã cướp đi sinh mạng của hơn 100.000 người, Nhà vua và quân đội của ông, kiệt sức vì giá lạnh và nạn đói, cuối cùng đã đượcquân Đồng Minh đưa đếnđảo Corfu của Hy Lạp vào đầu năm 1916. Trong suốt thời gian còn lại của Thế chiến thứ nhất, Vua Petar I, vốn đã rất yếu, vẫn ở lại Corfu, nơi trở thành trụ sở của chính phủ lưu vong Serbia cho đến tháng 12 năm 1918.
Vào ngày 1 tháng 12 năm 1918, Vua Petar I được tuyên bố làVua của người Serbia, người Croatia và người Slovenia. Vua Petar ở nước ngoài cho đến tháng 7 năm 1919, sau đó trở về Belgrade, nơi ông qua đời vào năm 1921 ở tuổi 77. Ông được chôn cất long trọng tại nghĩa trang ởOplenac, Nhà thờ Saint George gần Topola ở miền Trung Serbia, nơi ông nội của ông là Karađorđe, người sáng lập ra triều đại, đã phát động một cuộc nổi loạn quy mô lớn chống lại người Ottoman vào năm 1804.
Ba thành phố tại Serbia trong thời kỳ trướcThế chiến thứ hai được đặt theo tên của vua Petar I:Mrkonjić Grad tại Bosnia-Herzegovina (tên cũ là Varcar Vakuf), Petrovgrad tạiVojvodina (tên cũ là Veliki Bečkerek, hiện nay làZrenjanin) vàPetrovac na Moru (tên cũ là Kaštel Lastva) tạiMontenegro. Nhiều bia tưởng niệm ông tạiNam Tư đã bị chính quyền cộng sản phá hủy sau năm 1945. Một bia tưởng niệm tại Zrenjanin được phục dựng lại cùng với một số bia tưởng niệm nhỏ hơn tại Beograd và một số nơi khác tại Serbia.
Tại Paris, Pháp có một đại lộ tạiChamps-Élysées mang tên ông đó làAvenue Pierre 1er de Serbie.[33] Có một tượng đài khiêm tốn dành riêng cho Vua Petar I của Serbia ởOrléans,Pháp, khi ông chiến đấu với tư cách là một tình nguyện viên trong quân đội Pháp. Một tượng đài lớn dành cho Vua Petar và con trai ông là Alexander I của Nam Tư cũng được khánh thành vào năm 1936, tại Porte de la Muette ở Paris. Bộ phimVua Petar đệ nhất của Serbia được phát hành vào đầu tháng 12 năm 2018 với sự tham gia củaLazar Ristovski trong vai Vua Petar.[34]
Bjelajac, Mile (1997). "King Petar I Karađorđević". Trong Radan, Peter; Pavković, Aleksandar (biên tập).The Serbs and Their Leaders in the Twentieth Century. Farnham, England: Ashgate.ISBN978-1-8552-189-1-8.
Živojinović, Dragoljub R. (1988–1992).Kralj Petar I Karađorđević [King Peter I Karađorđević] (bằng tiếng Serbia). Quyển 1–3. Belgrade, Yugoslavia: BIGZ.ISBN978-8-61300-324-3.