Bộ Guốclẻ, bộ Móng Lẻ haybộ Móng guốc lẻ(Perissodactyla) (từ tiếng Hy Lạp cổ đại, "περισσόςperissós, "lẻ"; và δάκτυλοςdáktylos, "ngón, móng"), hoặcđộng vật móng guốc lẻ (tiếng Anh:Odd-Toed Ungulate) bao gồm cácđộng vật móng guốc đi đứng trênmột (số lẻ) trong năm ngón guốc: ngón thứ ba của chúng. Các ngón guốc còn lại không chịu trọng lượng cơ thể thường vẫn còn, mất đi, còn dấu tích hoặc nằm ở sau chân. Ngược lại,động vật móng guốc chẵn chịu hầu hết trọng lượng cơ thể của chúng trênhai (số chẵn) trong năm ngón guốc: ngón thứ ba và tư. Một sự khác biệt khác giữa hai bộ là động vật móng guốc lẻ tiêu hóa thực vật chúng ăn trongruột của chúng, chứ không phải trong một hoặc nhiều buồngdạ dày như động vật móng guốc chẵn.
Mặc dù có ngoại hình rất khác nhau, chúng vẫn được công nhận là những Họ gần gũi với nhau vào thế kỷ 19 bởi nhà động vật họcRichard Owen, người đặt tên cho Bộ này.
Động vật móng guốc ngón lẻ đã phát sinh tại khu vực mà ngày nay làBắc Mỹ vào cuốithế Paleocen, chưa tới 10 triệu năm sausự kiện tuyệt chủng kỷ Phấn Trắng-phân đại đệ Tam, mà trong sự kiện đó các loàikhủng long đã bị tuyệt chủng. Vào đầuthế Eocen (55 triệu năm trước) chúng đã đa dạng hóa và tản ra để chiếm lĩnh vài lục địa. Các loàingựa vàlợn vòi cùng tiến hóa tại Bắc Mỹ; trong khi các loài tê giác dường như đã phát triển tạichâu Á từ các động vật tương tự như heo vòi và sau đó tái chiếmchâu Mỹ trong thời kỳ giữathế Eocen (khoảng 45 triệu năm trước). Có khoảng 12 họ trong bộ này, nhưng còn tồn tại đến ngày nay chỉ còn ba họ. Các họ này là rất đa dạng về hình dáng và kích thước; chúng bao gồm các động vật khổng lồ trong họBrontotheriidae và các động vật kỳ quái trong họChalicotheriidae. Loài động vật móng guốc ngón lẻ to lớn nhất là tê giác không sừng châu Á (chiParaceratherium họHyracodontidae, đã tuyệt chủng), nặng tới 12 tấn, vào khoảng hai lần nặng hơnvoi.
Các động vật móng guốc ngón lẻ đã từng là nhóm thống trị trong số các động vật lớn sống trên đất liền và gặm cành, chồi cây cho tới tậnthế Oligocen. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh của các loài cỏ trongthế Miocen (khoảng 20 triệu năm trước) sđã tạo ra sự thay đổi lớn: các loàiđộng vật móng guốc ngón chẵn với các dạ dày phức tạp hơn đã có khả năng thích nghi tốt hơn với các thức ăn thô và ít dinh dưỡng hơn và chúng nhanh chóng trở thành nhóm thống lĩnh. Tuy nhiên, nhiều loài động vật ngón lẻ cũng đã sống sót và còn thịnh vượng cho đến tận cuốithế Pleistocen (khoảng 10.000 năm trước) khi chúng phải đối mặt với áp lực từ sự săn bắt của con người và sự thay đổi môi trường sống.
Các thành viên trong bộ này được chia thành hai phân bộ:
Hippomorpha là các động vật móng guốc ngón lẻ có khả năng chạy nhanh với các chân dài và chỉ có một ngón chân; phân bộ này có một họ duy nhất làhọ Ngựa (Equidae) (chỉ có một chi làEquus), bao gồm các loàingựa,ngựa vằn,lừa,lừa rừng Trung Á và các loài đồng minh khác.
Ceratomorpha là các động vật móng guốc ngón lẻ có vài ngón chân hoạt động, chúng nặng nề và di chuyển chậm hơn các loài trong nhómHippomorpha. Phân bộ này bao gồm hai họ là:Tapiridae (lợn vòi) vàRhinocerotidae (tê giác)
Ba họ với các chi còn tồn tại đến ngày nay của động vật móng guốc ngón lẻ được phân loại như sau.
Bộ PERISSODACTYLA
Phân bộ Hippomorpha
HọEquidae: Ngựa và các loài đồng minh, khoảng 9 loài trong 1 chi
^Frido Welker; Matthew J. Collins; Jessica A. Thomas; Marc Wadsley; Selina Brace; Enrico Cappellini; Samuel T. Turvey; Marcelo Reguero; Javier N. Gelfo; Alejandro Kramarz; Joachim Burger; Thomas Jane Oates; David A. Ashford; Peter D. Ashton; Keri Rowsell; Duncan M. Porter; Benedikt Kessler; Roman Fischer; Carsten Baessmann; Stephanie Kaspar; Jesper V. Olsen; Patrick Kiley; James A. Elliott; Christian D. Kelstrup; Victoria Mullin; Michael Hofreiter; Eske Willerslev; Jean-Jacques Hublin; Ludovic Orlando; Ian Barnes; Ross DE MacPhee. "Ancient protein resolve the evolutionary history of Darwin's South American ungulates".Nature. Quyển 522. tr. 81–84.doi:10.1038/nature14249.PMID25799987.
^Luke T. Holbrook; Joshua Lapergola (2011). "A new genus of perissodactyl (Mammalia) from the Bridgerian of Wyoming, with comments on basal perissodactyl phylogeny".Journal of Vertebrate Paleontology. Quyển 31. tr. 895–901.doi:10.1080/02724634.2011.579669.