Tên quần đảo trongtiếng Palau làBelau, có thể bắt nguồn từbeluu có nghĩa là "làng mạc" trong tiếng Palau,,[4] hoặc là từaibebelau (nghĩa "trả lời gián tiếp"), liên quan đến một truyền thuyết về sự hình thành quần đảo.[5] Cái tên "Palau" trongtiếng Anh đến từtiếng Tây Ban NhaLos Palaos, vàtiếng ĐứcPalau. Tên cổ không còn được sử dụng của quần đảo trong tiếng Anh là "Quần đảo Pelew".[6] Không nên nhầm lẫn với chữPulau trongtiếng Mã Lai nghĩa là "đảo".
Một quần thể ổn định gồm những người lùnNegrito hayngười Pygmy sống trên quần đảo cho đến thế kỷ XII, khi họ bị thay thế.[cần dẫn nguồn] Cư dân hiện đại truy theo ngôn ngữ thì có thể họ đến từQuần đảo Sunda.
Sonsorol, một phần củaQuần đảo Tây Nam, là một chuỗi đảo kéo dài 600 kilômét (370 mi) từ đảo dãy đảo chính Palau, được người châu Âu tìm thấy vào năm 1522, khi con tàu Tây Ban NhaTrinidad, soái hạm của đội tàuFerdinand Magellan, nhìn thấy 2 hòn đảo khoảng vĩ độ 5 bắc và đặt tên là "San Juan".[8]
Bản đồ năm 1888 cho thấy Đông Ấn thuộc Tây Ban Nha bao gồm quần đảo Palau ngày nay (bản đồ không bao gồm Philippines)
Sau khi Đế quốc Tây Ban Nha chinh phạt Philippines vào năm 1565, quần đảo Palau trở thành một phần lãnh thổ của Phủ tổng đốc Philippines, thành lập vào năm 1574 và trực thuộcĐông Ấn Tây Ban Nha với thủ phủ hành chính đặt tạiManila. Tuy nhiên, sự hiện diện của người Tây Ban Nha chỉ giới hạn ở việc truyền bá Phúc Âm, bắt đầu từ thế kỷ XVII, và quyền thống trị của họ chỉ thật sự hình thành từ thế kỷ XVIII.
Khám phá rõ ràng về Palau chỉ đến một thế kỷ sau đó vào năm 1697, khi một nhóm người Palau bị đắm tàu trênđảo Samar về phía tây bắc thuộc Philippines. Họ được phỏng vấn bởi nhà truyền giáo ngườiCzechPaul Klein vào ngày 28 tháng 12 năm 1696. Klein đã có thể vẽ được bản đồ đầu tiên của Palau dựa trên những mô tả của các cư dân Palau bằng cách sắp xếp 87 viên đá cuội trên bờ biển. Klein báo cáo khám phá của ông cho Bề trên thuộcDòng Tên qua một lá thư gửi đi vào tháng 6 năm 1697.,[9] đánh dấu thời điểm phát hiện ra Palau.
Các tù trưởng trên đảo Koror 1915
Tấm bản đồ và lá thư gây ra sự quan tâm của người Tây Ban Nha với quần đảo mới. Một lá thư khác viết bởi Fr. Andrew Serrano được gửi tới châu Âu vào năm 1705, hầu như sao chép nội dung báo cáo của Klein. Những lá thư đã đưa đến ba chuyến đi thất bại của Dòng Tên đến Palau xuất phát từPhilippines thuộc Tây Ban Nha vào năm 1700, 1708 và 1709. Quần đảo được khám phá lần đầu tiên bởi chuyến thám hiểm của Dòng Tên do Francisco Padilla dẫn đầu vào ngày 30 tháng 11 năm 1710. Chuyến đi kết thúc với việc hai linh mục Jacques Du Beron và Joseph Cortyl mắc cạn trên bờ biển Sonsorol, do thuyền mẹSantísima Trinidad bị bão đẩy tớiMindanao. Tàu khác được phái đến từGuam vào năm 1711 để cứu họ song lại bị lật, khiến ba linh mục Dòng Tên khác thiệt mạng. Thất bại của các sứ mệnh này khiến Palau có tên tiếng Tây Ban Nha ban đầu làIslas Encantadas (quần đảo bỏ bùa).[10] Bất chấp các rủi ro này,Đế quốc Tây Ban Nha sau đó chi phối quần đảo.
Thương nhân người Anh trở thành những vị khách nổi bật đến Palau trong thế kỷ XVIII, tiếp đến là bành trưởng ảnh hưởng của Tây Ban Nha trong thế kỷ XIX. Sau thất bại trongchiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ, Tây Ban Nha bán Palau và hầu hết phần còn lại của quần đảo Caroline choĐế quốc Đức vào năm 1899. Trongchiến tranh thế giới thứ nhất,Đế quốc Nhật Bản thôn tính quần đảo sau khi chiếm nó từ tay Đức vào năm 1914. Sau đó,Hội Quốc Liên chính thức đặt quần đảo dưới quyền cai quản của Nhật Bản với vị thế là bộ phận củaỦy thác Nam Dương.
Bốn trong số các khu vực của Lãnh thổ Ủy thác hợp nhất thànhLiên bang Micronesia vào năm 1979, song khu vực Palau vàQuần đảo Marshall từ chối tham gia. Palau thay vào đó lựa chọn độc lập vào năm 1978. Palau phê chuẩn một hiến pháp mới và trở thành nước Cộng hòa Palau vào năm 1981.[11] Palau ký kết Hiệp ước Liên kết tự do với Hoa Kỳ vào năm 1982. Sau trưng cầu dân ý và sửa đổi hiến pháp, Hiệp ước được phê chuẩn vào năm 1993. Hiệp ước có hiệu lực vào ngày 1 tháng 10 năm 1994,[12] khiến Palau độc lập về pháp lý, song độc lập thực tế khi kết thúc ủy trị từ ngày 25 tháng 5 năm 1994,.
Thượng viện thông qua luật biến Palau thành một trung tâm tài chính hải ngoại vào năm 1998. Năm 2001, Palau thông qua các luật đầu tiên về điều lệ ngân hàng và chống rửa tiền.
Palau là một nước cộng hòa dân chủ đa đảng. Tổng thống Palau là nguyên thủ quốc gia và cũng là người đứng đầu chính phủ. Quyền hành pháp do chính phủ thi hành, còn quyền lập pháp được trao cho chính phủ và Quốc hội Palau. Bộ máy tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp. Palau thông qua một hiến pháp vào năm 1981.
Chính phủ Hoa Kỳ và Palau dàn xếp một hiệp ước liên kết tự do vào năm 1986, tương tự như các hiệp ước mà Hoa Kỳ ký kết với Liên bang Micronesia và Quần đảo Marshall.[13] Hiệp ước có hiệu lực vào ngày 1 tháng 10 năm 1994, kết thúc chuyển giao Palau từ ủy thác sang độc lập[13] và là bộ phận cuối của Lãnh thổ Ủy thác Quần đảo Thái Bình Dương đạt được độc lập theo Nghị quyết 956 của Hội đồng Bảo an.
Hiệp ước liên kết tự do giữa Hoa Kỳ và Palau[14] định ra liên kết tự do và tình nguyện giữa hai chính phủ. Nó chủ yếu tập trung vào các vấn đề chính phủ, kinh tế, an ninh và quốc phòng.[15] Palau không có quân đội độc lập, dựa vào Hoa Kỳ để phòng thủ. Theo hiệp ước, quân đội Hoa Kỳ được quyền tiếp cận quần đảo trong 50 năm. Hải quân Hoa Kỳ có vai trò tối thiểu, hạn chế trong một số ít Seabee hải quân (kỹ sư xây dựng).Tuần duyên Hoa Kỳ tuần tra vùng biển của Palau.
Palau là một quốc gia có chủ quyền, quản lý các quan hệ đối ngoại của mình.[13] Từ khi độc lập, Palau thiết lập quan hệ ngoại giao với một số quốc gia, bao gồm nhiều láng giềng Thái Bình Dương nhưLiên bang Micronesia vàPhilippines. Ngày 29 tháng 11 năm 1994, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết số 963 đề nghị tiếp nhận Palau vào Liên Hợp Quốc. Đại hội đồng liên Hiệp Quốc phê chuẩn tiếp nhận Palau vào ngày 15 tháng 12 năm 1994.[16] Palau từ đó tham gia một vài tổ chức quốc tế khác. Trong tháng 9 năm 2006, Palau đăng cai Hội nghị Thượng đỉnh Đồng minh Đài Loan-Thái Bình Dương lần thứ nhất. Các tổng thống Palau cũng đến thăm các quốc gia Thái Bình Dương khác, trong đó cóĐài Loan.
Hoa Kỳ duy trì một phái đoàn ngoại giao và một đại sứ quán tại Palau, song hầu hết khía cạnh trong quan hệ hai bên được thực hiện theo các dự án được tài trợ trong khuôn khổ Hiệp ước, doPhòng Quốc hải vụ củaBộ Nội vụ Hoa Kỳ chịu trách nhiệm.[17] Trên chính trường quốc tế, Palau thường bỏ phiếu giống Hoa Kỳ trong các nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.[18] Palau là một thành viên của Hiệp ước Nauru.[19]
Năm 1981, Palau bỏ phiếu lập ra hiến pháp phi hạt nhân đầu tiên trên thế giới. Hiến pháp này cấm chỉ sử dụng, lưu trữ và xử lý các vũ khí hạt nhân, hóa học độc hại, không khí và sinh học mà không được 3/4 dân số tán thành trong một cuộc trưng cầu dân ý.[20] Điều cấm này làm trì hoãn quá trình chuyển đổi Palau thành quốc gia độc lập, do trong khi đàm phán Hoa Kỳ nhất định muốn vận hành các tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân và vũ khí hạt nhân cất trong kho trên lãnh thổ Palau,[21] xúc tiến các chiến dịch đòi độc lập và phi hạt nhân hóa.[22] Sau một vài cuộc trưng cầu dân ý thất bại trong việc đạt đa số 3/4, người dân Palau cuối cùng tán thành Hiệp ước vào năm 1994.[23][24]
Các hòn đảo đông dân nhất làAngaur,Babeldaob,Koror, vàPeleliu. Ba trong số 4 đảo chính này nằm cùng nhau trong cùng một rặng san hô, trong khiAngaur là một hòn đảo nằm về phía nam đất nước. Khoảng 2/3 dân số Palau sống ở bangKoror. Cácđảo san hô của bangKayangel nằm phía bắc của 4 hòn đảo chính, trong khi các đảo đá không có người ở (khoảng 20 đảo) nằm về phía tây của nhóm 4 đảo chính. Một nhóm đảo xa gồm 6 hòn đảo, được gọi là quần đảo Tây Nam, cách 4 hòn đảo chính của quốc gia khoảng 375 dặm (604 km), đây cũng là một phần của đất nước Palau và hình thành nên các bangHatohobei vàSonsorol.
Palau cókhí hậunhiệt đới quanh năm với nhiệt độ trung bình hàng năm là 82 °F (28 °C). Lượng mưa lớn trong suốt cả năm, trung bình tổng cộng 3.800mm mỗi năm. Độ ẩm trung bình trong suốt năm là 82%, và mặc dù mưa rơi thường xuyên hơn giữa tháng 7 và tháng 10, là vẫn còn nhiều ánh nắng mặt trời. Bão là rất hiếm, vì Palau nằm bên ngoài vành đai bão Thái Bình Dương.
Nền kinh tế của Palau bao gồm chủ yếu là các ngànhdu lịch,nông nghiệp tự cung tự cấp, vàngư nghiệp. Hoạt động du lịch tập trung vào việc lặn biển và lặn trong môi trường biển đảo phong phú, bao gồm tham quan các bức tường san hô và xác tàu chiến bị đắm trongchiến tranh thế giới thứ hai ở ngoài khơi Palau. Chính phủ là nguồn sử dụng lao động lớn đối với lực lượng lao động quốc gia, các hoạt động kinh tế của Palau dựa nhiều vào sự hỗ trợ tài chính từMỹ. Lượng khách du lịch đến Palau tăng 50.000 góp phần đem lại nguồn thu lớn cho Palau trong năm tài chính 2000-2001. Dân số được hưởng mức thu nhập bình quân đầu người gấp đôi so với quốc gia láng giềng làliên bang Micronesia. Triển vọng cho ngành du lịch trọng điểm đã được hỗ trợ rất nhiều bởi việc mở rộng du lịch hàng không ở Thái Bình Dương, sự thịnh vượng ngày càng tăng của các nướcĐông Á.
Trong tháng 7 năm 2004, hãng hàng không quốc gia Palau Micronesia Air đã được khai trương với các điểm đến ở Palau,Guam,Micronesia,Nhật Bản,Australia, vàPhilippines. Bằng cách cung cấp giá vé thấp, hãng hàng không này đã được lên kế hoạch trở thành một đối thủ cạnh tranh với hãng hàng không Continental Micronesia của Liên bang Micronesia, tuy nhiên nó không còn hoạt động trong tháng 12 năm đó, chủ yếu là do giá nhiên liệu tăng cao. Hãng hàng không Palau Micronesia Air đã không hoạt động lại từ đó nhưng hãng này đã thực hiện một loạt các liên minh liên danh hàng không với hãng hàng khôngAsian Spirit, với hoạt động các chuyến bay giữa Palau vàViệt Nam thông qua các điểm trung chuyển hành khách là (Davao,Cebu vàManila) của Philipines. Có hai chuyến bay hàng tuần từThành phố Hồ Chí Minh thông qua điểm trung chuyển hành khách ở Cebu để đến Palau và các chuyến bay hàng tuần từ Davao. Chỉ sau vài tháng hãng hàng không Asian Spirit ngừng các chuyến bay từ Philippines đến Palau.[25]
Trong tháng 11 năm 2006, các Ngân hàng Palau chính thức tuyên bố phá sản. Ngày13 tháng 12 cùng năm ngân hàng quốc gia Horizon Palau báo cáo rằng có tổng cộng 641 người gửi tiền đã bị ảnh hưởng bởi sự kiện này. Trong số 641 tài khoản, có 398 tài khoản gửi ít hơn 5000 USD, phần còn lại khác nhau, từ 5000USD đến 2 triệu USD. Ngày 12 tháng 12, 79 người của những người bị ảnh hưởng nhận tiền đền bù, một trong số đó là từ Đài Loan, trong khi phần còn lại là các tài khoản từ Palau, Philipines và Mỹ. Ông Toribiong thống tống ngân hàng quốc gia Horizon Palau nói:"Kinh phí cho thanh toán đến từ sự cân bằng vốn vay cho Palau từ chính phủ Đài Loan".
Dân số Palau là khoảng 21.000 người, trong đó 70% làngười Palau bản địa, có nguồn gốc từ từ sự hòa huyết qua các cuộc hôn nhân giữangười Melanesia,Micronesia, và gốc châu Đại Dương. Nhiều người Palau cũng có một số gốc từ châu Á, đó là kết quả của những cuộc hôn phối giữa người di cư và người Palau vào giữathế kỷ XIX vàthế kỷ XX.Người Nhật Bản là nhóm người dân tộc di cư lớn nhất, ngoài ra còn cóngười Trung Quốc vàngười Hàn Quốc.Người Philippines hình thành nhóm dân tộc ngoại lai lớn thứ hai.
Các ngôn ngữ chính thức của Palau làtiếng Palau vàtiếng Anh, ngoại trừ hai bang (Sonsorol vàHatohobei), nơi ngôn ngữ địa phương, cùng với tiếng Palau, là chính thức.Tiếng Nhật cũng nói rộng rãi ở Palau, và là một ngôn ngữ chính thức của bangAngaur.Tiếng Tagalog không được công nhận là ngôn ngữ chính thức tại Palau, nhưng nó là ngôn ngữ lớn thứ tư ở quốc đảo này.
Giáo hội Công giáo Rôma là tôn giáo thống trị ở Palau, khoảng 65% dân số là thành viên. Ước tính của các nhóm tôn giáo khác với một lượng tín đồ khá lớn là các Giáo hội Tin Lành có khoảng 2000 tín đồ trong đóCơ Đốc Phục Lâm có 1.000 tín đồ,Giáo hội Mặc Môn 300 tín đồ; vàNhân Chứng Giê-hô-va có 90 tín đồ. Giáo phái Modekngei có khoảng 1.800 tín đồ. Cũng có 6.800 người theo Công giáo là người Philippines.
Công giáo hiện diện ở Palau kể từ khi cáclinh mụcdòng Tên đến Palau truyền giáo từthế kỷ XIX hoặc sớm hơn.
^Morei, Cita (1998), "Planting the mustard seed of world peace", trong dé Ishtar, Zohl (biên tập),Pacific women speak out for independence and denuclearisation, Christchurch, Aotearoa/New Zealand Annandale, New South Wales, Australia: Women's International League for Peace and Freedom (Aotearoa) Disarmament and Security Centre (Aotearoa) Pacific Connections,ISBN9780473056667
^"Trusteeship Mission reports on Palau voting. (plebiscite on the Compact of Free Association with the United States)". Quyển 27 số 2.UN Chronicle. tháng 6 năm 1990.{{Chú thích tạp chí}}:Chú thích magazine cần|magazine= (trợ giúp)