Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Nhị thập bát tú

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
"Nhị thập bát tú" đổi hướng tới đây. Đối với các định nghĩa khác, xemNhị thập bát tú (định hướng).
Nhị thập bát tú
Sơ đồNhị thập bát tú của Âm Dương sư người NhậtAbe no Seimei (921–1005)
Tên tiếng Trung
Tiếng Trung二十八宿
Nghĩa đen28 trạm dừng chân
Phiên âm
Tiếng Hán tiêu chuẩn
Bính âm Hán ngữèr shí bā xiù
Chú âm phù hiệuㄦˋ ㄕˊ ㄅㄚ ㄒㄧㄡˋ
Quốc ngữ La Mã tựelr shyr bah shiow
Wade–Gileserh⁴ shih² pa¹ hsü⁴
Tiếng Khách Gia
Latinh hóaNgi-sṳ̍p-pat Siuk
Tiếng Quảng Châu
Latinh hóa Yaleyi saap baat sauk
Việt bínhji6 sap6 baat3 sau3
Tiếng Mân Đông
Phiên âm Bình thoạitiếng Phúc ChâuNê-sĕk-báik Séu
Tên tiếng Việt
Chữ Hán二十八宿
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
이십팔수
Hanja
二十八宿
Phiên âm
Romaja quốc ngữIsippalsu
McCune–ReischauerIsipp'alsu
Tên tiếng Nhật
Kanji二十八宿
Hiraganaにじゅうはっしゅく
Katakanaニジュウハッシュク
Chuyển tự
RōmajiNijū Hasshuku

Nhị thập bát tú là một thuật ngữ trongthiên văn học phương Đông cổ đại, chỉ 28chòm sao nằm gầnhoàng đạoxích đạo thiên cầu. Đây là một phần quan trọng trong hệ thống tọa độxích đạo của thiên văn học cổ đại Trung Quốc. Mỗi chòm sao trong số này được xác định dựa trên một ngôi sao cố định gọi là "cự tinh", đóng vai trò làm mốc để đo lường vị trí của các thiên thể nhưMặt Trời,Mặt Trăng, ngũ hành tinh (Kim,Mộc,Thủy,Hỏa,Thổ),sao chổi và cácthiên thể khác. Nhị thập bát tú không chỉ là cơ sở để quan sát các vì sao mà còn để theo dõi chuyển động của các thiên thể trên bầu trời.

Người xưa chia vòng hoàng đạo thành bốn phần, tương ứng với bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc và gán cho mỗi phương một linh thú huyền thoại, được gọi làTứ tượng, bao gồmThanh Long ở phương Đông,Bạch Hổ ở phương Tây,Chu Tước ở phương Nam vàHuyền Vũ ở phương Bắc. Mỗi phương được chia thành 7 chòm sao, mỗi chòm sao đều có một ngôi sao chính gọi là "cự tinh", được dùng làm mốc để xác định tọa độ thiên văn. Chúng không chỉ là công cụ của các nhà thiên văn cổ, mà còn là biểu tượng linh thiêng trong văn hóa và tâm linh, gắn liền với vận khí của trời đất. Chẳng hạn,chòm Giác tú, với ngôi sao chủ là Giác tú nhất, ban đầu chỉ một nhóm sao nhỏ gần xích đạo. Nhưng về sau, nó được mở rộng để bao gồm cả vùng trời thuộc Giác tú, đại diện cho sự khai mở, tiên phong và canh tân.

Hệ thống Nhị thập bát tú cũng có điểm tương đồng với hệ thốngNakshatra trongthiên văn học Ấn Độ và 36 Decan trongthiên văn học cổ đại Ai Cập, vốn cũng dựa trên chuyển động của Mặt Trăng. Không chỉ giới hạn trong thiên văn học, Nhị thập bát tú còn được sử dụng rộng rãi trong các hoạt độngbói toántử vi đẩu số. Khi kết hợp với thất diệu (bảy hành tinh chủ) và các con vật tượng trưng, chúng trở thành các "Cầm tinh", giúp luận đoán vận mệnh, dự báo sự hưng suy của gia đình, quốc gia và cả vũ trụ. Mỗi chòm sao đại diện cho một phẩm chất, năng lượng và sự ảnh hưởng đặc biệt, như sao nào chủ về phúc đức, sao nào mang lại thử thách hay biến động.

Ngoài vai trò là một hệ thống thiên văn cổ, Nhị thập bát tú còn xuất hiện trong văn hóa đại chúng, đặc biệt thông qua sự nhân cách hóa trong các tác phẩm văn học và thần thoại nhưPhong thần diễn nghĩaTây du ký. TrongPhong thần diễn nghĩa, Nhị thập bát tú vốn là đệ tử củaThông Thiên giáo chủ. Sau khi bị tiêu diệt trongtrận chiến Thương – Chu, hồn phách họ bị đưa lên bảng Phong Thần và trở thành những vị thần cai quản các chòm sao. TrongTây du ký, Nhị thập bát tú xuất hiện trong vai trò những vị thần hỗ trợ hoặc đối đầu vớiTôn Ngộ Không và nhóm thỉnh kinh.

Từ nguyên

[sửa |sửa mã nguồn]

"Nhị thập bát tú" còn được gọi là "Nhị thập bát xá" hoặc "Nhị thập bát thứ". Các từ "tú" (宿), "xá" (舍) và "thứ" (次) đều mang ý nghĩa là nơi dừng chân, nghỉ ngơi hay trạm trú. Trong bối cảnh này, chúng được hiểu là "nơi ở" củaMặt Trăng,Mặt Trời và các vì sao.[1]

Mặt Trăng quay quanhTrái Đất và nếu lấy các ngôi sao cố định làm hệ quy chiếu, thời gian để Mặt Trăng hoàn thành một vòng quỹ đạo và trở về cùng một vị trí là khoảng 27,33 ngày, gọi là một tháng sao (hay tháng thiên văn). Theo quan niệm của người xưa, mỗi ngày Mặt Trăng đi qua một khu vực các ngôi sao cố định, và khu vực này được xem như trạm nghỉ hoặc quán trọ của Mặt Trăng trong ngày hôm đó. Vì vậy, những ngôi sao này được chia thành 27 hoặc 28 chòm sao, gọi là Nhị thập bát tú. Trong thời kỳ đầu, người Trung Quốc cổ đại cũng từng sử dụng hệ thống 27 tú, nhưng về sau, cách phân chia 28 tú trở nên phổ biến và được chuẩn hóa.[1]

Hệ thống sao

[sửa |sửa mã nguồn]
Hệ tọa độ xích đạo thiên văn truyền thống của Trung Quốc. Đường màu đỏ làxích đạo thiên cầu, các điểm xanh lá là cáccự tinh và điểm màu xanh dương làcực Bắc thiên cầu. Khi tính toán vị trí của một thiên thể màu cam, "Nhập tú độ" (góc của vùng xanh lá) biểu thịxích kinh, còn "Cự cực độ" (góc của vùng xanh dương) biểu thịxích vĩ.
Hệ thống Nhị thập bát tú về bản chất là mộthệ tọa độ cầu (r,θ,φ), tuy nhiên góc phương vịφ không cố định tính từ trục x, mà được thiết lập dựa trên 28 điểm chuẩn, tức 28cự tinh của Nhị thập bát tú.

Mặc dù "Nhị thập bát tú" có liên quan đến Mặt Trăng, nhưng việc thiết lập hệ thống này không chỉ nhằm ghi chép vị trí chuyển động của Mặt Trăng. Vì vậy, bầu trời không đơn giản bị chia đều thành 28 phần bằng nhau. Trên thực tế, mỗi "tú" chiếm một khoảng không gian rất khác biệt. Mục đích của việc này là chọn ra 28 ngôi sao làm điểm chuẩn để xây dựng một hệ tọa độ sao toàn diện, giúp nhận thức mối quan hệ giữa Mặt Trời và Mặt Trăng cũng như hiểu rõ hơn về chuyển động của các thiên thể như Mặt Trời, Mặt Trăng và các hành tinh.[2]

Sau đó, vào khoảng thời Chiến Quốc, người Trung Quốc cổ đại đã thiết lập được hệ thống Nhị thập bát tú. Đây là một hệ tọa độ thiên văn dựa trên xích đạo trời, sử dụng xích đạo làm mặt phẳng cơ sở và dùng xích kinh (kinh độ thiên văn) và xích vĩ (vĩ độ thiên văn) để định vị các thiên thể. Trong đó Xích vĩ được biểu thị bằng khoảng cách góc từ thiên thể đến cực Bắc thiên cầu, gọi là "cự cực độ". Xích kinh được đo bằng khoảng cách góc giữa thiên thể và ngôi sao chuẩn đầu tiên ở phía Tây của nó, gọi là "cự tinh độ".[3]

Những ngôi sao chuẩn dùng để so sánh và tính toán xích kinh được gọi là "cự tinh", bao gồm 28 ngôi sao thuộc 28 chòm sao, tạo nên hệ thống Nhị thập bát tú. Khoảng cách góc giữa các cự tinh được gọi là "cự độ". Mặc dù hệ thống này dựa trên tọa độ xích đạo, nhưng chỉ khoảng một nửa các "tú" nằm gần xích đạo, còn lại nằm gần hoàng đạo. Điều này cho thấy vào thời điểm đó, người xưa vẫn chưa hoàn toàn phân biệt rõ ràng giữa xích đạo và hoàng đạo.[4]

Danh sách Nhị thập bát tú và các Cự tinh

[sửa |sửa mã nguồn]
Bản đồ sao cổ đại Trung Quốc

Vào thờiHán Vũ Đế,Đặng Bình cùng các cộng sự đã xây dựngThái Sơ lịch, qua đó thống nhất hệ thống Nhị Thập Bát Tú và các khoảng cách tới các cự tinh. Hệ thống này được sử dụng liên tục cho đến thờinhà Nguyên. Danh sách đầy đủ được trình bày trong bảng sau. TừSùng Trinh lịch thư trở đi, các Cự tinh được đặt tên theo cách "ngôi sao thứ nhất của tú X" (某宿一). Vào thời Minh và Thanh, đã có sự điều chỉnh đối với các ngôi sao cự tinh thuộc các chòm Khuê, Chủy và Sâm. Các tên gọi hiện tại như "Khuê tú nhị" (奎宿二), "Chủy tú nhị" (觜宿二) và "Sâm tú tam" (参宿三) phản ánh sự thay đổi này.[5]

Tứ tượng
(四象)
Nhị thập bát tú[6]
Số thứ tựTên chữ HánTên tiếng ViệtCự tinh
Đông phương Thanh Long
(東方青龍)
Mùa xuân
1Giácα Vir
2Cangκ Vir
3Đêα Lib
4Phòngπ Sco
5Tâmα Sco
6μ¹ Sco
7γ Sgr
Bắc phương Huyền Vũ
(北方玄武)
Mùa đông

8Đẩuφ Sgr
9Ngưuβ Cap
10Nữε Aqr
11β Aqr
12Nguyα Aqr
13Thấtα Peg
14Bíchγ Peg
Tây phương Bạch Hổ
(西方白虎)
Mùa thu

15Khuêη And
16Lâuβ Ari
17Vị35 Ari
18Mão17 Tau
19Tấtε Tau
20Chủyλ Ori
21Sâmζ Ori
Nam phương Chu Tước
(南方朱雀)
Mùa hè

22Tỉnhμ Gem
23Quỷθ Cnc
24Liễuδ Hya
25Tinhα Hya
26Trươngυ¹ Hya
27Dựcα Crt
28Chẩnγ Crv

Sự thay đổi của Nhị thập bát tú

[sửa |sửa mã nguồn]

Trong lịch sử, danh sách các chòm sao thuộc Nhị thập bát tú, khoảng cách giữa các "tú" (cự độ), ngôi sao định vị (cự tinh) và thứ tự các chòm sao đã trải qua nhiều thay đổi. TheoKhai Nguyên chiêm kinh thờiĐường, các cự độ được cho là dựa trên quan sát củaThạch Thân từ thờiChiến Quốc. Những số liệu này gần giống với các ghi chép trên thẻ tre khai quật tại mộTầnCam Túc và đĩa tròn thiên văn từ mộNhữ Âm hầu thờiHán tạiPhụ Dương,An Huy. Tuy nhiên, các cự độ này khác biệt đáng kể so với các số liệu từ thời Hán trở đi, cho thấy đã có sự điều chỉnh lớn về các cự tinh trong thời Tây Hán.[7] TrongSử Ký, chương Luật Thư, một hệ thống 28 chòm sao khác, được cho là củaCam Đức thời Chiến Quốc, được ghi nhận. Hệ thống này không có các chòm sao Đẩu (斗), Chủy (觜), Tỉnh (井) và Quỷ (鬼), nhưng thay vào đó là Kiến Tinh (建星), Phạt (罰), Lang (狼) và Hồ (弧).[8] Hệ thống này có thể là tiền thân của hệ thống 28 chòm sao chuẩn hóa sau này, với phân bố các chòm sao đồng đều hơn.[9]

Tuế sai (sự thay đổi chậm của trục quay Trái Đất) cũng ảnh hưởng đến cự độ giữa các cự tinh, gây ra sự thay đổi dần dần vị trí tương đối của chúng. Một số cự độ giữa hai ngôi sao rất gần nhau thậm chí có thể trở thành giá trị âm, làm thay đổi thứ tự xích kinh của chúng. Ví dụ, sau thế kỷ 13, cự tinh của Chủy tú (φ¹ Orionis) và Sâm tú (δ Orionis) hoán đổi thứ tự xích kinh. Các nhà truyền giáoDòng Tên vào thời Minh mạt Thanh sơ đã thay đổi thứ tự của hai tú này, nhưng gây ra tranh cãi lớn. Đến năm 1752, triều đìnhCàn Long quyết định thay đổi cự tinh của Tỷ tú thành sao λ Orionis và cự tinh của Sâm tú thành sao ζ Orionis, khôi phục thứ tự "Chủy trước, Sâm sau" như cũ.[10]

Trong thời kỳ đầu, người xưa thường chọn những ngôi sao sáng làm cự tinh, bất kể khoảng cách của chúng đến xích đạo. Nhưng khi hệ thống Nhị thập bát tú được hoàn thiện, các cự tinh được chuyển sang các ngôi sao nằm gầnhoàng đạo/xích đạo hơn, dù chúng có thể kém sáng hơn. Ví dụ sao Thiên Lang (Sirius) từng được chọn làm cự tinh của Tỉnh tú, nhưng sau này được thay thế. Trong đĩa thiên văn Nhữ Âm hầu, các cự tinh như Tâm tú nhị (Antares), Tất tú ngũ (Aldebaran) và Sâm tú tứ (Betelgeuse) được ghi nhận, nhưng sau đó không còn được sử dụng.[11][12]

Nguồn gốc

[sửa |sửa mã nguồn]

Việc xác định thời gian xuất hiện của hệ thống Nhị thập bát tú vẫn còn gây tranh cãi trong giới nghiên cứu. Người xưa có thể rất sớm đã nhận ra các ngôi sao và chòm sao sáng gần hoàng đạo hoặc xích đạo thiên cầu, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc đã hình thành khái niệm tổng thể về hoàng đạo, xích đạo hay hệ thống Nhị thập bát tú.[13] Toàn bộ hệ thống Nhị thập bát tú xuất hiện lần đầu trong tài liệu cổ nhưChu lễ với cụm từ "nhị thập bát tinh" (二十有八星).[14] Danh sách đầy đủ các chòm sao được ghi nhận sớm nhất trongLã thị Xuân Thu. Hiện vật cổ nhất là nắp hộp sơn khắc hình Nhị thập bát tú từ lăng mộ Tăng hầu Ất, có niên đại vào đầu thời Chiến Quốc.[15][16]

Từ các tính toán thiên văn, hệ thống Nhị thập bát tú có thể đã được hình thành từ rất sớm. Các chòm sao hoàng đạo ngày nay vẫn nằm gần hoàng đạo, trong khi các chòm sao xích đạo do ảnh hưởng của tuế sai đã không còn trùng khớp với xích đạo thiên cầu hiện tại. Theo Phùng Thời, thời kỳ mà các chòm sao xích đạo phù hợp nhất với xích đạo thiên cầu là từ thế kỷ 35 TCN đến thế kỷ 30 TCN.[17] Nhà thiên văn họcTrúc Khả Trinh (1890–1974) nhận thấy,sao Ngưusao Nữ ban đầu chỉsao Ngưu Lang (Altair) vàsao Chức Nữ (Vega).[18] Tuy nhiên, thứ tự xích kinh giữa hai sao này đã hoán đổi, với Altair ban đầu xếp trước Vega, nhưng sau khoảng thời gian từ 36 TCN đến 30 TCN, thứ tự này đã đảo ngược.[19]

Các cách sắp xếp

[sửa |sửa mã nguồn]

Thiên khu

[sửa |sửa mã nguồn]
Bản đồ thiên văn khắc đá thời Tống, được bảo tồn tại Văn miếu Tô Châu, chia toàn bộ vùng trời, ngoại trừ khu vực gần cực bắc thiên cầu, dựa trên hệ thống nhị thập bát tú.

Nhị thập bát tú không chỉ được sử dụng như hệ thống tọa độ thiên văn mà còn để tổ chức và sắp xếp các chòm sao. TrongBộ Thiên Ca (步天歌) củaĐan Nguyên Tử thời Tùy, các chòm sao trên bầu trời được tái tổ chức và phân thành các khu vực. Khu vực gần cực bắc được chia thànhtam viên:Tử Vi,Thái ViThiên Thị. Các chòm sao còn lại được phân dọc thành 28 thiên khu, dựa theo kinh độ xích đạo và gán vào nhị thập bát tú. Ví dụ, chòm sao Giác tú bao gồm 11 mảng sao nhưGiác (角),Nam Môn (南門),Thiên Môn (天門) vàBình Đạo (平道).[20]

Tứ tượng

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau khi hệ thống nhị thập bát tú được thiết lập, các tú được chia thành bốn nhóm, tương ứng với bốn cung,tứ tượng và bốn mùa. Tứ tượng không phải là hình ảnh toàn bộ của bảy tú trong mỗi cung, mà chỉ dựa trên một phần các chòm sao chính của từng cung.[21]

Cung Đông bao gồm sáu tú Giác,Cang (亢),Đê (氐),Phòng (房),Tâm (心) và (尾) nối liền, tạo hình dáng như một con rồng, có thể là nguồn gốc của hình tượng "rồng" trongvăn minh Hoa Hạ.[22] Cung Tây với các túChủy (觜),Sâm (參) vàPhạt (伐) tạo hình như một con hổ. Cung Nam kết hợp các túLiễu (柳),Tinh (星),Trương (張) vàDực (翼) tạo thành hình một loài chim lớn. Cung Bắc gồm các tú Nguy (危) vàPhần Mộ (墳墓) có hình dáng như một con hươu hoặckỳ lân.[23] Về sau, khi ghép Nguy với (虚), hình tượng biến đổi thành một con rùa, trong khiĐằng Xà (螣蛇) gần đó gợi nên hình ảnh một con rắn. Khoảng từ cuối thời Chiến Quốc đến đầu thời Tây Hán, các hình tượngThanh Long,Chu Tước,Bạch HổHuyền Vũ mới được liên kết trọn vẹn với toàn bộ bảy tú trong mỗi cung.[24]

Phân dã

[sửa |sửa mã nguồn]
Xem thêm:Hoài Nam tử § Thuyết tự nhiên

Người Trung Quốc cổ đại dựa vào một mối quan hệ đối ứng đặc biệt để phân chia các vùng lãnh thổ, gọi là "phân dã" (分野). Cốt lõi của lý thuyết phân dã là mối liên hệ giữa các vùng lãnh thổ trên mặt đất với các thiên thể, được gọi là thuyết "tinh thổ" (星土). Trong thuyết này, hai yếu tố quan trọng là "Nhị thập thứ" (十二次) và "Nhị thập bát tú". Sự đối ứng giữa nhị thập bát tú và các vùng lãnh thổ được ghi chép theo nhiều cách khác nhau.[25] Một trong những nguồn tài liệu quan trọng làKhai Nguyên chiêm kinh, nơi ghi lại chi tiết cách thức phân dã này.[26]

Phân saoGiác
Cang
Đê
Phòng
Tâm
ĐẩuNgưuNữNguy
Thất
Bích
KhuêLâuVịMãoTất
Chủy
Sâm
TinhQuỷLiễu
Tinh
Trương
DựcChẩn
Phạm vi phân saoChẩn 12°
Đê 4°
Đê 5°
Vĩ 9°
Vĩ 10°
Đẩu 11°
Đẩu 12°
Nữ 7°
Nữ 8°
Nguy 15°
Nguy 16°
Khuê 4°
Khuê 5°
Vị 6°
Vị 7°
Tất 11°
Tất 12°
Tinh 15°
Tinh 16°
Liễu 8°
Liễu 9°
Trương 17°
Trương 18°
Chẩn 11°
Mười hai địa chiThìnMãoDầnSửuHợiTuấtDậuThânMùiNgọTỵ
Mười hai thángTrung ThuQuý ThuMạnh ĐôngTrung ĐôngQuý ĐôngMạnh XuânTrung XuânQuý XuânMạnh HạTrung HạQuý HạMạnh Thu
Mười hai "trạm dừng chân"Thọ TinhĐại HỏaTích MộcTinh KỷHuyền KiêuTu TýHàng LâuĐại LươngThực TrầmChuẩn ThủChuẩn HỏaChuẩn Vĩ
Quốc gia phân dãTrịnhTốngYênNgôViệtTềVệLỗTriệuNgụyTầnChuSở

Về nguồn gốc lý luận của mối liên hệ giữa nhị thập bát tú và các vùng lãnh thổ, từ xưa đến nay đã có nhiều ý kiến khác nhau. Một số cho rằng, thời cổ đại, các bộ tộc khác nhau có những ngôi sao riêng mà họ quen quan sát, về sau trở thành những ngôi sao được các quốc gia phong kiến sử dụng trong nghi lễ tế tự, từ đó phát triển thành hệ thống phân dã.[27] Một quan điểm khác cho rằng người Trung Quốc cổ đại có tư duy so sánh tương tự giữa thiên văn và địa lý, kết hợp các phương vị của sao với phương vị địa lý.[28] Tuy nhiên, trong quá trình phát triển sau này, mối liên hệ giữa sao và các quốc gia phong kiến dần trở thành một sự liên kết mang tính hình thức, ngày càng xa rời ý nghĩa thiên văn ban đầu.[29]

Thuật số

[sửa |sửa mã nguồn]

Vào thời cổ đại, sự chuyển động tương đối giữa các thiên thể và nhị thập bát tú thường được xem là điềm báo. Chẳng hạn,Sử ký, "Thiên Quan thư" ghi chép: "Nhà Hán nổi lên, ngũ tinh tụ ở chòm sao Đông Tỉnh. Lúc [Hán Cao Tổ] bị [Hạng Vũ] vây ở Bành Thành, Mặt Trăng có bảy vòng quầng sáng ở chòm sao Sâm – Tất." Một ví dụ khác là sao Thần (sao Thủy), thuộc hành Thủy trong Ngũ hành, được cho là có mối liên hệ với nước. Trong khi đó, Đông Tỉnh (Tỉnh tú) được ví như một cái giếng. Vì vậy, hiện tượng "Thần tinh thủ Đông Tỉnh" (sao Thủy nằm ở Đông Tỉnh) được xem là điềm báo về lũ lụt.[30]

Sự kết hợp chặt chẽ giữa thiên văn và thuật số trong văn hóa Trung Quốc cổ đã khiến nhiều khái niệm thiên văn dần mất đi ý nghĩa gốc, thay vào đó là sự nhân cách hóa và mô tả hình tượng, phục vụ cho các mục đích như bói toán và đoán mệnh. Một ví dụ điển hình là bức Ngũ tinh nhị thập bát tú thần hình đồ, được cho là do Lương Lệnh Toản thời nhà Đường vẽ, trong đó nhị thập bát tú được nhân cách hóa thành các hình người, kèm theo ghi chú về tính cách, đền thờ, và nghi lễ thờ cúng. Trong các sách thông thư, có mục "Tú trực", mỗi ngày tương ứng với một tú trong nhị thập bát tú, luân phiên lặp lại, với mỗi tú mang ý nghĩa cát hung riêng. Điều này hoàn toàn tách rời khỏi các hiện tượng thiên văn thực tế, trở thành một chu kỳ do con người thiết lập để sử dụng trong thuật số.[31]

BứcNgũ tinh cập nhị thập bát tú thần hình đồ (五星及二十八宿神形图) được cho là tác phẩm của Lương Lệnh Toản (梁令瓒) thời nhà Đường, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Osaka, Nhật Bản.

Cầm tinh

[sửa |sửa mã nguồn]

Nhị thập bát tú còn được liên kết đặc biệt với Thất diệu (七曜) và các loài động vật, để dự đoán vận mệnh, phúc lộc và cát hung của con người. Sự kết hợp này được gọi là "Cầm tinh" (禽星) tức là mỗi người được gắn với một con vật tượng trưng theo năm sinh hoặc sao chiếu mệnh. Khái niệm cầm tinh trong tiếng Hán gốc có nghĩa là "sao của thú" (禽星), liên quan đến thuật bói toán cổ đại. Theo ghi chép trongTừ nguyên (bản cũ), các nhà chiêm tinh sử dụng ngũ hành, nhị thập bát tú và các con vật biểu tượng để dự đoán dữ lành. Ví dụ, các tổ hợp như Giác kim giao (rồng vàng), Tâm hỏa hồ (cáo lửa), hay Trương hỏa lộc (hươu lửa) được sử dụng để định vận mệnh, ngày giờ, hoặc phương hướng.

Thuật toán dự đoán dựa trên cầm tinh được gọi là "Diễn cầm" (演禽). Theo ghi chép trongTương Sơn Dã Lục (湘山野錄) thời Bắc Tống, dưới triềuTống Thần Tông, Vương Xứ Nặc, người đảm nhiệm chức Tư thiên giám vào đầu triều đại, đã sử dụng thuật toán Cầm tinh để dự đoán vận mệnh.[32]

MộcKimThổNhậtNguyệtHỏaThủy
Đông cungGiác Mộc GiaoCang Kim Long Đê Thổ Lạc Phòng Nhật ThốTâm Nguyệt Hồ Hỏa Hổ Thủy Báo
Bắc cungĐẩu MộcGiảiNgưu Kim NgưuNữ ThổBức NhậtThửNguy NguyệtYếnThất HỏaTrưBích Thủy Dư
Tây cungKhuê Mộc LangLâu KimCẩuVị ThổTrĩMão NhậtTất NguyệtÔChủy Hỏa HầuSâm Thủy Viên
Nam cungTỉnh Mộc HãnQuỷ Kim DươngLiễu Thổ ChươngTinh NhậtTrương Nguyệt LộcDực Hỏa Chẩn Thủy Dẫn


Trong văn hóa Việt Nam, cầm tinh đã giản lược thành ý nghĩa biểu tượng của con vật đại diện cho năm sinh theo địa chi (ví dụ: người tuổi Tý cầm tinh con chuột, người tuổi Sửu cầm tinh con trâu). Tuy nhiên, cách hiểu này đã tách biệt hoàn toàn khỏi khái niệm gốc của tiếng Hán. Một số từ điển tiếng Việt từng chú thích sai lệch "cầm tinh" bằng chữ Hán 擒星, có nghĩa là "bắt sao", nhưng thực chất thuật ngữ đúng, 禽星, là sự nhân cách hóa mối liên kết giữa các ngôi sao và động vật trong chiêm tinh học cổ đại.

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^abPhùng Thời (2001), tr. 261–62.
  2. ^Phùng Thời (2001), tr. 262–63.
  3. ^Trần Cửu Kim & Dương Di (2010), tr. 10–11.
  4. ^Phùng Thời (2013), tr. 85–86.
  5. ^Phùng Thời (2013), tr. 89, 92.
  6. ^Phùng Thời (2013), tr. 94, 133.
  7. ^Phùng Thời (2013), tr. 88–91.
  8. ^Trần Cửu Kim (2012), tr. 78–81.
  9. ^Trịnh Vĩnh Hằng & Lý Dũng (2009).
  10. ^Hoàng Nhất Nông (1991).
  11. ^Vương Kiện Dân & Lưu Kim Nghi (1989).
  12. ^Phùng Thời (2001), tr. 268, 272.
  13. ^Phùng Thời (2001), tr. 264.
  14. ^Trần Cửu Kim (2012), tr. 9, 11.
  15. ^Phan Nãi (2009), tr. 10.
  16. ^Trần Cửu Kim (2012), tr. 13.
  17. ^Phùng Thời (2001), tr. 265.
  18. ^Trúc Khả Trinh (2004).
  19. ^Phùng Thời (2001), tr. 268.
  20. ^Trần Cửu Kim (2012), tr. 82.
  21. ^Phùng Thời (2001), tr. 261.
  22. ^Phùng Thời (2001), tr. 308.
  23. ^Phùng Thời (2001), tr. 312–13.
  24. ^Phùng Thời (2001), tr. 318–20.
  25. ^Lý Dũng (1992).
  26. ^Gautama Siddha (724).Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFGautama_Siddha724 (trợ giúp)
  27. ^Trần Mỹ Đông (2007), tr. 741–49.
  28. ^Lưu Tuấn Nam (2008).
  29. ^Phùng Thời (2001), tr. 77–80.
  30. ^Trần Cửu Kim 2007, tr. 72.
  31. ^Lý Huy 2011, tr. 52, 56.
  32. ^Hoàng Kim Quý 2007, tr. 31.

Thư mục

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Gautama Siddha (724)."Quyển 64" .Khai Nguyên chiêm kinh(開元占經) (bằng tiếng Trung) – quaWikisource.
  • Hoàng Kim Quý, biên tập (2007).中国古代文化会要 [Tổng yếu văn hóa Trung Quốc cổ đại] (bằng tiếng Trung). Hàng Châu: Nhà xuất bản Tây Lăng Ấn Xã [西泠印社出版社].ISBN 978-7-80735-159-7.
  • Hoàng Nhất Nông (1991)."清前期對觜、參兩宿先後次序的爭執——社會天文學史之一個案研究 [Tranh luận về thứ tự trước sau của hai túc Chủy và Tham trong giai đoạn đầu triều Thanh: Một nghiên cứu trường hợp trong lịch sử thiên văn học xã hội]".近代中國科技史論集 [Tuyển tập nghiên cứu lịch sử khoa học kỹ thuật Trung Quốc cận đại]. Đài Bắc: Viện Nghiên cứu Lịch sử Cận đại, Viện Nghiên cứu Lịch sử Đại học Thanh Hoa Quốc gia [中央研究院近代史研究所,國立清華大學歷史研究所]. tr. 71-93.ISBN 9789579046541.Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2017.
  • Lý Dũng (1992).对中国古代恒星分野和分野式盘研究 [Nghiên cứu về phân dã và đĩa phân dã của các sao cố định trong thiên văn cổ đại Trung Quốc].自然科学史研究 [Nghiên cứu Lịch sử Khoa học Tự nhiên] (01): 22-31.
  • Lý Huy (2011).宿之名与宿直日. 汉译佛经中的宿曜日研究 (天文学史博士论文) [Tên của tú và ngày tú trực: Nghiên cứu về các ngày trong tuần theo tú trong kinh Phật dịch sang Hán] (Luận văn) (bằng tiếng Trung). Thượng Hải: Đại học Giao thông Thượng Hải [上海交通大学].
  • Lưu Tuấn Nam (2008).上古星宿与地域对应之科学性考释 [Giải thích tính khoa học trong sự tương ứng giữa các chòm sao và khu vực địa lý thời thượng cổ].农业考古 [Nông nghiệp Khảo cổ] (01): 234-243.
  • Phan Nãi (2009).中国恒星观测史 [Lịch sử quan sát sao cố định ở Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). Thượng Hải: Nhà xuất bản Học Lâm [学林出版社].ISBN 978-7-80730-694-8.
  • Phùng Thời (2001).中国天文考古学 [Thiên văn khảo cổ học Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). Bắc Kinh: Nhà xuất bản Văn hiến Khoa học Xã hội [社会科学文献出版社].ISBN 7-80149-602-7.
  • Phùng Thời (2013).中国古代物质文化史 天文历法 [Lịch sử văn hóa vật chất cổ đại Trung Quốc: Thiên văn và lịch pháp] (bằng tiếng Trung). Bắc Kinh: Nhà xuất bản Khai Minh [开明出版社].ISBN 978-7-80205-935-1.
  • Trần Cửu Kim; Dương Di (2010).中国古代天文与历法 [Thiên văn và lịch pháp cổ đại Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). Bắc Kinh: Nhà xuất bản Phát thanh Quốc tế Trung Quốc [中国国际广播出版社].ISBN 978-7-5078-3163-4.
  • Trần Cửu Kim (2012).斗转星移映神州:中国二十八宿 [Đẩu chuyển tinh di ánh Thần Châu: Nhị thập bát tú Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). Thâm Quyến: Nhà xuất bản Hải Thiên [海天出版社].ISBN 978-7-5507-0318-6.
  • Trần Mỹ Đông (2007).中国古代天文学思想 [Tư tưởng thiên văn học cổ đại Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). Bắc Kinh: Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật Trung Quốc [中国科学技术出版社].ISBN 978-7-5046-5069-6.
  • Trịnh Vĩnh Hằng; Lý Dũng (2009).二十八宿的形成与演变 [Sự hình thành và biến đổi của Nhị thập bát tú](PDF).Tạp chí Lịch sử Khoa học và Công nghệ Trung Quốc [中国科技史杂志].30 (1): 110-119.doi:10.3969/j.issn.1673-1441.2009.01.012.Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2023.
  • Trúc Khả Trinh (2004) [1944]. "二十八宿起源之时代与地点 [Thời đại và địa điểm khởi nguyên của Nhị thập bát tú]".竺可桢全集 第2卷 [Trúc Khả Trinh toàn tập, tập 2] (bằng tiếng Trung). Thượng Hải: Nhà xuất bản Giáo dục Khoa học Kỹ thuật Thượng Hải [上海科技教育出版社]. tr. 590–613.ISBN 7-5428-3458-4.
  • Trần Cửu Kim (2007).帝王的星占:中国星占揭秘 [Chiêm tinh của hoàng đế: Giải mã chiêm tinh Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). Bắc Kinh: Nhà xuất bản Quần Ngôn [群言出版社].ISBN 978-7-80080-755-8.
  • Vương Kiện Dân; Lưu Kim Nghi (1989). "西汉汝阴侯墓出土圆盘上二十八宿古距度的研究 [Nghiên cứu về khoảng cách độ cổ của Nhị thập bát tú trên đĩa tròn khai quật từ mộ Nhữ Âm hầu thời Tây Hán]". Trong Viện Nghiên cứu Khảo cổ Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (biên tập).中国古代天文文物论集 [Tuyển tập nghiên cứu di vật thiên văn cổ đại Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). Bắc Kinh: Nhà xuất bản Văn Vật [文物出版社].ISBN 7-5010-0063-8.

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Tam viên
Tứ tượng
Nhị thập bát tú
Đông phươngThanh long (青龍):Giác (角) •Cang (亢) •Đê (氐) •Phòng (房) •Tâm (心) • (尾) • (箕)

Nam phươngChu tước (朱雀):Tỉnh (井) •Quỷ (鬼) •Liễu (柳) •Tinh (星) •Trương (張) •Dực (翼) •Chẩn (軫)

Tây phươngBạch hổ (白虎):Khuê (奎) •Lâu (婁) •Vị (胃) •Mão (昴) •Tất (畢) •Chủy (觜) •Sâm (參)

Bắc phươngHuyền vũ (玄武):Đẩu (斗) •Ngưu (牛) •Nữ (女) • (虛) •Nguy (危) •Thất (室) •Bích (壁)
Ngũ hành
Mộc •Hỏa •Thổ •Kim •Thủy
Ngũ Long
Ngũ Hổ
Lịch sử
chiêm tinh học
Nhà chiêm tinh
Truyền thống,
thể loại,
chi nhánh,
hệ thống
Chiêm tinh theo truyền thống
Chiêm tinh Babylon
Chiêm tinh Miến Điện
Chiêm tinh Ireland cổ
Chiêm tinh Trung Quốc
Người Thiên Chúa giáo và chiêm tinh
Magi
Sinh học vũ trụ
Chiêm tinh Ai Cập Hy Lạp hóa
Trường phái Chiêm tinh Hamburg
Chiêm tinh Hy Lạp cổ đại
Chiêm tinh Ấn Độ
Chiêm tinh Nadi
Quan điểm của người Do Thái về chiêm tinh
Thiên văn học Do Thái
Lịch Maya
Chiêm tinh trong Hồi giáo thời trung cổ
Chiêm tinh học tại Sri Lanka
Chiêm tinh Tây Tạng
Chiêm tinh học phương Tây
Chiêm tinh Yemen
Chiêm tinh theo thể loại
Chiêm tinh nông nghiệp
Khí tượng học
Chiêm tinh học phương hướng
Chiêm tinh bí truyền
Hành tinh cổ điển trong chiêm tinh học phương Tây
Phong thủy
Bói bài Tarot
Chiêm tinh tài chính
Chiêm tinh nhật tâm
Chiêm tinh thời điểm
Chiêm tinh bản đồ sao
Chiêm tinh pháp lý
Chiêm tinh nghiệp lực
Chiêm tinh Katarchic
Chiêm tinh địa lý
Bản đồ sao địa lý
Chiêm tinh y học
Bản đồ sao
Bản đồ sao chiêm tinh
Chiêm tinh tâm lý học
Chiêm tinh học theo thiên văn thực và nhiệt đới
Cung Mặt Trời trong chiêm tinh
Chiêm tinh đồng bộ
Bài viết liên quan
Cổng thông tin:
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nhị_thập_bát_tú&oldid=72178280
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp