Đại Cồ Việt | |||||||||
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||
| 968–980 | |||||||||
Châu Á vào nửa sau thế kỷ thứ 10, với lãnh thổ Đại Cồ Việt (Giao Chỉ-màu vàng) | |||||||||
| Vị thế | Đế quốc | ||||||||
| Thủ đô | Hoa Lư | ||||||||
| Thành phố lớn nhất | Đại La | ||||||||
| Ngôn ngữ thông dụng | Hán ngữ trung đại | ||||||||
| Tôn giáo | Phật giáo,Đạo giáo,... | ||||||||
| Chính trị | |||||||||
| Chính phủ | Quân chủ | ||||||||
| Hoàng đế | |||||||||
• 968-979 | Đinh Tiên Hoàng | ||||||||
• 979-980 | Đinh Phế Đế | ||||||||
| Lịch sử | |||||||||
• Đinh Bộ Lĩnh đánh bại 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế | 968 | ||||||||
• Lê Hoàn soán ngôi Nhà Đinh | 980 | ||||||||
| Kinh tế | |||||||||
| Đơn vị tiền tệ | Tiền xu | ||||||||
| |||||||||
| Chuyên đề |
| Lịch sử Việt Nam |
|---|
|
Nhà Đinh (chữ Nôm: 茹丁,chữ Hán: 丁朝,Hán Việt:Đinh triều) làtriều đạiquân chủphong kiến tronglịch sử Việt Nam bắt đầu năm968, sau khiĐinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn12 sứ quân thống nhất đất nước và kết thúc năm980 khi con của Đinh Tiên Hoàng làĐinh Phế Đế nhường ngôi choLê Hoàn.
Nhà Đinh là triều đại mở đầu chế độphong kiến tập quyền và thời kỳ tự chủ với một chế độ đứng đầu bởi mộtHoàng đế của nướcViệt Nam.[1] Vương triều nhà Đinh đã mở nền chính thống cho thời đại phong kiến độc lập cho nên trong các bộ chính sử kể từĐại Việt sử ký toàn thư thế kỷ XV,Đại Việt sử ký tiền biên thế kỷ XVIII đếnKhâm định Việt sử thông giám cương mục thế kỷ XIX thì triều đại này đều được các tác giả lấy làm mốc mở đầu phầnBản kỷ hoặcChính biên. Tiếp đến, việc xưng đế hiệuĐại Thắng Minh Hoàng đế của Đinh Tiên Hoàng mang ý thức lớn về sự tự tôn của nước Việt, có hàm ý so sánh với cácHoàng đếTrung Hoa.[2]
Năm 944,Ngô Quyền (vua tự xưng là Ngô Vương) mất, anh/em vợ làDương Tam Kha cướp ngôi củanhà Ngô, xưng Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ các vùng thường đem quân đánh lẫn nhau.
Con trưởng của Ngô Quyền làNgô Xương Ngập bỏ trốn.Dương Tam Kha nhậnNgô Xương Văn - con thứ củaNgô Quyền - làm con nuôi. Năm950, Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, trở thành Nam Tấn Vương. Ngô Xương Ngập được đưa về, cũng làm vua, là Thiên Sách Vương. Đó là thờiHậu Ngô Vương.
Năm954,Ngô Xương Ngập chết. Đến năm965,Ngô Xương Văn chết, conNgô Xương Ngập làNgô Xương Xí nối nghiệp. Nhưng vì thế lực suy yếu nên lui về giữ đất Bình Kiều. Quý tộc nhà Ngô, các tướng nhà Ngô cùng các thủ lĩnh địa phương đều nổi dậy chiếm cứ một vùng. Bắt đầu từ đó hình thành thế cục mà sử sách gọi làloạn 12 sứ quân.
Trong số các lực lượng nổi dậy chống triều đình, nổi lênĐinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn). Ông là ngườiHoa Lư, châu Đại Hoàng. Có cha làĐinh Công Trứ - nha tướng củaDương Đình Nghệ, giữ chứcThứ sửHoan Châu(Nghệ An,Hà Tĩnh ngày nay).
Thời kỳ đó,Đinh Bộ Lĩnh đã cùng những người thân thiết tổ chức lực lượng, rèn vũ khí, xây dựng căn cứ ởHoa Lư. Sau vì bất đồng với người chú, Đinh Bộ Lĩnh cùng con traiĐinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của Sứ quân Trần Minh Công (Trần Lãm) ởBố Hải Khẩu. Sau khi Trần Minh Công chết,[3]Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, chiêu mộ binh lính, chiêu dụ được sứ quânPhạm Bạch Hổ cùng nhiều sứ quân khác chống nhà Ngô và tiến đánh các sứ quân còn lại.
Trong hơn 3 năm, nhờ tài năng của mình,Đinh Bộ Lĩnh được nhân dân nhiều địa phương giúp sức, ủng hộ, đánh đâu thắng đấy, được tôn là Vạn Thắng vương. Các sứ quân lần lượt bị đánh bại hoặc xin hàng. Tình trạng cát cứ chấm dứt. Cuối năm967, đất nước trở lại bình yên, thống nhất.
Năm968,Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, tức làĐinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu làĐại Cồ Việt, đóng đô ởHoa Lư.
Đinh Bộ Lĩnh có ba con trai:Đinh Liễn,Đinh Toàn (Đinh Tuệ) vàĐinh Hạng Lang. Đinh Liễn là con cả, đã cùngĐinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân. Năm978, Đinh Bộ Lĩnh lập con út là Hạng Lang làmthái tử. Đinh Liễn quá tức giận nên giết chết Hạng Lang vàomùa xuân năm979.
Cuối năm 979,Đinh Tiên Hoàng vàĐinh Liễn bị sát hại trong cung. Sử ghi thủ phạm là nội nhânĐỗ Thích, nhưng các nhà nghiên cứu gần đây đặt ra giả thiết khác, cho rằng chủ mưu làLê Hoàn (sau này làm vua và gọi là Lê Đại Hành) và Dương hậu.
Năm979 Đinh Toàn, con trai còn lại của Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, làĐinh Phế Đế.
Đinh Toàn khi đó mới 6 tuổi. Quyền lực thực tế nằm trong tay Thập đạo tướng quânLê Hoàn, là nhiếp chính. Các đại thầnĐinh Điền,Nguyễn Bặc,Phạm Hạp thấy vậy, lại nghi Lê Hoàn tư thông cùng Thái hậuDương Vân Nga nên cử binh đến đánh. Lê Hoàn dẹp tan, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đều bị giết chết. Phò mãNgô Nhật Khánh bỏ trốn vào nam sang Chăm Pa, sau đó cùng vuaChăm Pa với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bịbão chết.
Năm980,nhà Tống rục rịch điều quân sang đánh Đại Cồ Việt, Thái hậuDương Vân Nga cùng triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức vuaLê Đại Hành. Nhà Đinh kết thúc, truyền được đến đời thứ hai, trị vì 12 năm (968-980).
Lê Hoàn sau khi lên ngôi lập ranhà Tiền Lê đã đánh thắng quân Tống (tháng 4 năm 981). Đinh Toàn trở thành Vệ Vương có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 năm. Năm1001, trong lần cùng vua Lê Đại Hành đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cầm ThủyThanh Hóa, Đinh Toàn bị trúng tên chết.
Năm 971, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu quy định cấp bậc văn võ trong triều đình. Trong triều có sự tham gia của các nhà sư vì những đóng góp của họ trong quá trình dẹploạn 12 sứ quân.[4] Vua Đinh phong cho các quan văn võ:
Năm 975 vua Đinh ban quy định áo mũ cho các quan văn võ.[5] Bộ máy chính quyền nhà Đinh vẫn được xem là còn đơn sơ.[6]
Theo sử sách, quân đội nhà Đinh có mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy tổng số theo lý thuyết là 1 triệu người.[cần dẫn nguồn]

Tuy nhiên, trong các nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến cho rằng con số đó không có thực. ChữThập, theo Lê Văn Siêu, chỉ mang tính khái quát toàn thể về cách tổ chức kiểu "ngụ binh ư nông" nhưnhà Lý sau này, thời bình cho làm ruộng, chỉ huy động khi cần;[7] cònTrần Trọng Kim ước đoán quân đội nhà Đinh nhiều nhất chỉ có đến 10 vạn người.[8]
Do ảnh hưởng nhiều năm từ thời loạn lạc, có nhiều người quen thói lúc loạn, không chịu tuân theo luật lệ. Do đó vua Tiên Hoàng dùng pháp luật nghiêm ngặt để trừng trị.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi về việc này:
Trần Trọng Kim cho rằng "hình uy nghiêm như thế, thì cũng quá lắm, nhưng nhờ có những hình luật ấy thì dân trong nước mới dần dần được yên".[8]
Nhà Tống đang trên đường thống nhấtTrung Quốc sau hơn 50 năm loạn lạc. Quân Tống do Phan Mỹ chỉ huy đã áp sát nướcNam Hán ở cạnh nướcĐại Cồ Việt. Năm 970Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang giao hảo vớiTống Thái Tổ. Việc ngoại giao với phương Bắc từ đó được duy trì khá đều đặn và hòa bình.
Sang năm 972, Tiên Hoàng lại sai con cảĐinh Liễn đi sứ sang Biện Kinh. Năm 973,Đinh Liễn trở về, nhà Tống lại sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làmGiao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làmKiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ.[5]
Đầu năm 975, Tiên Hoàng lại saiTrịnh Tú đemvàng,lụa, sừng tê,ngàvoi sang triều cốngnhà Tống. Ngay mùa thu năm đó, nhà Tống sai Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù sang gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làmKhai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đó về sau,Đinh Liễn được giao làm chủ việc ngoại giao với nhà Tống.[5]
Đến năm 976, vua Đinh sai emTrần Lãm làPhò mã Trần Nguyên Thái sang nhà Tống đáp lễ. Năm sau (977), ông lại sai sứ sang mừng vua Tống mới làTống Thái Tông lên ngôi. Đó cũng là lần ngoại giao cuối cùng giữa nhà Đinh và nhà Tống mà sử sách đề cập.
Thời kỳ phục quốc của Việt Nam thế kỷ 10, từhọ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tớiNgô Quyền xưng Vương và tới vua Đinh xưng làm Hoàng đế. Sau một số vị vua xưng Đế từ trước và giữa thời Bắc thuộc bao gồmTriệu Vũ Đế,Triệu Văn Đế (nếu công nhận tính chính thống củanhà Triệu),Lý Nam Đế,Mai Hắc Đế rồi bị thất bại trước họa ngoại xâm, đến thời nhà Đinh, người cầm quyềnViệt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của một quốc gia độc lập. Trong hoạt động ngoại giao, nhà Đinh đượcnhà Tống thừa nhận và coi trọng.
Việc vua Đinh khôn khéo kết hợp dùng võ công và biện pháp chiêu hàng các sứ quân để sớm chấm dứtloạn 12 sứ quân (968) là rất kịp thời, vì không lâu sau đó nhà Tống duỗi tớiQuảng Châu, diệt nướcNam Hán (971), áp sát biên giớiĐại Cồ Việt. Nếu không có sự xuất hiện của Đinh Bộ Lĩnh để thống nhất quốc gia bị chia sẻ tan nát, Việt Nam khó thoát khỏi họa xâm lăng từ phương Bắc tái diễn khi nhà Tống hoàn thành việc thống nhất phương nam.
Kế tụcnhà Ngô, nhà Đinh tiếp tục xây dựng bộ máy cai trị trên lãnh thổ, dù chưa được hoàn bị nhưnhà Lý sau này nhưng bước đầu đã đi vào nền nếp.
Tổng cộng nhà Đinh có hai đời nhưng thực chất chỉ có 1 đời vua Tiên Hoàng.
Di tích về thời Đinh là các di tích có lịch sử hình thành từ thời Đinh hoặc có sau thời đại nhà Đinh, thờ các nhân vật lịch sử thời Đinh. Hiện ở Việt Nam có khoảng trên 500di tích về thời Đinh.
Ninh Bình là vùng đất cókinh đô Hoa Lư, ở đây có nhiều di tích liên quan đến triều đại nhà Đinh, đặc biệt nằm ở thành phốHoa Lư, huyệnNho Quan vàGia Viễn như:cố đô Hoa Lư vớisông Sào Khê,động Thiên Tôn,động Hoa Lư,... Đặc biệt,quần thể danh thắng Tràng An với rất nhiều di tích thời Đinh đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới năm 2014.
Nhà Đinh truyền được 2 vua, tổng cộng 12 năm.
| Thụy hiệu | Tên húy | Năm sinh - Năm mất | Thời gian trị vì | Niên hiệu |
|---|---|---|---|---|
| Tiên Hoàng Đế | Đinh Bộ Lĩnh | 924 - 979 | 968 - 979 |
|
| Phế Đế | Đinh Toàn | 974 - 1001 | 979 - 980 | không có |
| Đinh Công Trứ 877-940 | |||||||||||||||||||||||
| (1)Tiên Hoàng Đế Đinh Bộ Lĩnh 924-968-979 | |||||||||||||||||||||||
| Nam Việt Vương Đinh Liễn 945-979 | Thái Tử Đinh Hạng Lang ?-979 | (2)Phế Đế Đinh Toàn 974-979-980-1001 | |||||||||||||||||||||
| Thời kỳ Tự chủ | Nhà Ngô | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| Loạn 12 sứ quân | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| Nhà Đinh | Nhà Tiền Lê | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| Nhà Lý | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| kết hôn | nữ giới | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| Thời kỳ Tự chủ (905-938) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| (1)Khúc Thừa Dụ 830-905-907 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| (2)Khúc Hạo 860-907-917 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| (gia tướng) | (gia tướng) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| (4)Dương Đình Nghệ 874-931-937 | (3)Khúc Thừa Mỹ 874-917- 923/930-931 | (5)Kiều Công Tiễn 870-937-938 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| (gia tướng) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| Nhà Ngô (939-965) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| (1)Ngô Quyền 898-939-944 | Dương Như Ngọc ?-? | (2)Dương Tam Kha ?-944-950-980 | Kiều Công Chuẩn ?-? | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| (nhận nuôi) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| Nhà Đinh (968-980) | Nhà Tiền Lê (980-1009) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| (3b)Ngô Xương Ngập ?-951-954 | (3a)Ngô Xương Văn 934-950-965 | Ngô phu nhân ?-? | (1)Đinh Bộ Lĩnh 924-968-979 | Dương Vân Nga 952-1000 | (1)Lê Hoàn 941-980-1005 | Chi hầu Diệu nữ ?-? | Kiều Công Hãn ?-966-967 | Kiều Thuận ?-966-967 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| Đinh Hạng Lang ?-979 | (2)Đinh Toàn 974-979-980-1001 | (2)Lê Long Việt 983-1005 | (3)Lê Long Đĩnh 986-1005-1009 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| (con) | (con) | (con) | (con) | Nhà Lý (1009-1225) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| Ngô Xương Xí ?-965-968-? | Ngô Nhật Khánh ?-966-968-979 | Đinh Phất Kim ?-? | Đinh Liễn 945-979 | Lê Thị Phất Ngân ?-? | (1)Thái Tổ Lý Công Uẩn 974-1009-1028 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| (2)Thái Tông Lý Phật Mã 1000-1028-1054 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||