Bài viết nàycần thêmchú thích nguồn gốc đểkiểm chứng thông tin. Mời bạn giúphoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tớicác nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.(tháng 8/2023) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này) |
Nguyễn Văn Vĩnh | |
---|---|
![]() Chân dung nhà văn | |
Sinh | (1882-06-15)15 tháng 6, 1882 Hà Nội,Đại Nam |
Mất | 1 tháng 5, 1936(1936-05-01) (53 tuổi) Lào thuộc Pháp |
Nghề nghiệp | Nhà báo, nhà văn |
Phối ngẫu |
|
Con cái |
|
Nguyễn Văn Vĩnh (chữ Hán: 阮文永;1882 –1936) là nhà tân học,nhà báo,nhà văn, nhà phiên dịchViệt Nam, nhà chính trị Việt Nam đầuthế kỷ 20. Khi viết bài, ông ký nhiều bút danh:Tân Nam Tử, Quan Thành, Tông Gia, Lang Gia, Mũi Tẹt Tử, Đào Thị Loan....
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày15 tháng 6 năm1882 (tức ngày 30 tháng 4âm lịch nămNhâm Ngọ) tại số nhà 46 phốHàng Giấy, Hà Nội. Cha là ông Nguyễn Văn Trực, nguyên quán làng Phượng Vũ, xã Phượng Dực, thuộc phủThường Tín,tỉnh Hà Đông (nay là huyệnPhú Xuyên).
Do thời đó chưa có công trình thủy nông cống Đồng Quan nên quanh năm ngập nước, cánh đồng chiêm chỉ cấy được mỗi năm một vụ nên nhiều dân làng phải bỏ lên tỉnh sinh sống.
Hai vợ chồng ông Trực lên ở nhờ nhà họ hàng bên ngoại là vợ của ông nghèPhạm Huy Hổ ở số 46 phốHàng Giấy, Hà Nội để kiếm sống. Gia đình ông Trực đông con, từ 1882 tới 1890 hai ông bà sinh được hai con trai là Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Văn Thọ cùng 5 người con gái. Một mình bà Trực mưu sinh bằng cách về các vùng quê mua hàng gánh rachợ Đồng Xuân gần nhà bán. Để đỡ gánh nặng, ông Trực đã cho con cả Nguyễn Văn Vĩnh, lúc đó 8 tuổi đi làm nghề kéo quạt ở trường thông ngôn của Pháp ở Đình Yên Phụ, Hà Nội.
Trường thông ngônCollège des Interprètes du Tonkin mở năm1886, do mộtngười Pháp nói thạotiếng Việt tên làAndré d'Argence làm hiệu trưởng kiêm giáo viên quản lý. Phương pháp dạy chủ yếu là truyền khẩu, trường cũng có dạy A, B, C... để học viên tập đọc, tập viếttiếng Pháp và có dạy cảchữ quốc ngữ (hồi đó ở ngoài Bắc, chữ này mới chỉ được dùng trong phạm vi của cácgiáo hội).
Ngồi cuối lớp kéo quạt nhưng Nguyễn Văn Vĩnh chăm chú nghe giảng và học lỏm. Nhờ vậy, mà ông biết nói và viết đượcchữ Pháp khá thành thạo. Nhờ chăm chỉ và ham học nên được ông hiệu trưởng d’Argence đồng ý cho dự thi tốt nghiệp khi lớp học mãn khóa (1893) vào lớp thông ngôn tập sự ngạch Tòa công sứ cùng với 40 học sinh của khóa học, và đỗ thứ 12 khi mới 10 tuổi.
Thầy d'Argence bèn đặc cách xinhọc bổng cho ông và nhận ông làm học sinh chính thức của khóa học tiếp theo, khóa thông ngôn tòa sứ khóa 1893-1895 (ngoài thầy d'Argence còn có ông Đỗ Đức Toại, thủ khoa khóa 1890, cùng dạy). Nguyễn Văn Vĩnh đỗ thủ khoa khóa này lúc 14 tuổi, được tuyển đi làm thông ngôn ở tòa sứLào Cai.
Năm 14 tuổi, ông vào làm thông ngôn ở Tòa sứLào Cai. Lúc đó, Pháp đang cần người thông ngôn cho đoàn chuyên gia nghiên cứu và chuẩn bị xây đường sắtHải Phòng –Hà Nội –Lào Cai –Vân Nam cho Công ty Hỏa xa Vân Nam. Một năm làm thông ngôn tại Lào Cai, ông đã tích lũy thêm nhiều kiến thức. Khi đoàn chuyên gia được chuyển về Hải Phòng chuẩn bị cơ sở vật chất để xây dựng đường sắt, ông cũng được chuyển về Tòa sứHải Phòng theo họ.
Năm 1897, khi 15 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được điều vềHải Phòng đúng lúc người Pháp đang mở mang kiến thiết bến cảng. Công việc của ông ngoài việc thông ngôn cho các chuyên gia đón tàu nước ngoài vào cảng, còn phải tiếp nhận những vật tư kỹ thuật, hướng dẫn các công việc bốc vác, vận tải và xếp kho. Hàng ngày được giao tiếp vớithủy thủ của các tàu Pháp, Anh, Hoa, ông đã học thêmtiếng Trung Quốc vàtiếng Anh để thuận tiện cho công việc hàng ngày. Sau 3 tháng ông đã dịch được hai thứ tiếng này đủ để đoàn chuyên giaPháp làm việc. Họ đỡ phải tuyển thông ngôn viên tiếng Anh và tiếng Trung, và vì vậy họ mến cậu thông ngôn người bản xứ.
Với giá bằng nửa tháng lương của mình (hồi đó là 15 đồng), một món tiền rất lớn, ông đổi lấy bộ sáchLe Petit Larousse Illustré (từ điển Pháp có hình vẽ) vàEncyclopédie Autodidactique Quillet (hai quyển sách tự học chương trìnhTú tài Pháp). Ngoài giờ làm việc, ông chú tâm tự học, sau 2 năm là xong hết chương trình phổ thông, làm hết các bài tập ở trong sách. Trong thời gian 5 năm làm việc ở Hải Phòng, ông đã dành dụm mua được một hòm sáchchính trị,triết học và tiểu thuyếtvăn học Pháp, tài sản quý giá mà đi đâu ông cũng mang theo. Được đọc sách báo và tạp chí ngoại quốc đủ các loại - mượn của các thủy thủ nước ngoài - Nguyễn Văn Vĩnh nhận thấy là dân tộcAn Nam không có chữ riêng của mình, phải dùngchữ Nôm (loại chữ bắt chướcchữ Hán, khó học). Ý nghĩ phát triểnchữ Quốc ngữ, dễ học, để giúp cho nhiều người học hỏi mở mang kiến thức bắt đầu nhen nhóm, ông thử dịch những bài văn hay của Pháp ra Quốc ngữ, bắt đầu bằng những bài thơngụ ngôn củaLa Fontaine.
Từ năm 1897-1905, ông chuyển về Tòa sứ Hải Phòng và Bắc Ninh (tỉnhBắc Giang lúc đó bao gồm cả Bắc Ninh). Thời gian làm việc ở Hải Phòng, ông làm cộng tác viên cho tờCourrier d’Hai Phong (Thư tín Hải Phòng) và tờTribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương).
Viên công sứ Bắc Giang Hauser là một trí thức Pháp đỗcử nhân luật, đi học ngạch quan cai trị thuộc địa, có đầu ócdân chủ và có ý thức đúng đắn vềnhân quyền, biết người biết ta. Thấy ông Vĩnh nói tiếng Pháp thành thạo, am hiểu công việc văn thư, tự mình thảo được công văn và báo cáo đủ các loại cho tòa sứ, lại viết được báotiếng Pháp và là cộng tác viên của tờCourrier d’Haiphong và tờTribune Indochinoise, Hauser liền đề bạt Vĩnh làm Chánh Văn phòng tòa sứ, nâng lương vượt ngoài khung lương thông ngôn, và giao cho các công việc đáng lẽ phó sứ phải làm (Phó sứ Eckert hồi đó nguyên là nhân viênsở mật thám, không có trình độ văn hóa, không làm được những việc nói trên).
Tòa sứ đặt ởBắc Ninh, gần Hà Nội, nên các quan chức Pháp thường xuyên qua lại, ai muốn hỏi việc gì, công sứ Hauser đều giới thiệu đến chánh văn phòng và tất cả đều được giải đáp nhanh chóng, thỏa đáng với đầy đủ chứng cứ rõ ràng. Sau 4 năm làm việc chung, Hauser càng mến phục, nể tài Nguyễn Văn Vĩnh, coi ông như là một cộng tác viên thân cận, một người bạn, đi đâu cũng kéo ông đi theo, vì thế cho nên cuối năm1905, khi ông công sứ được đề bạt lên làm Đốc lý tại Hà Nội, ông Vĩnh được điều về theo.
KhiToàn quyềnBeau sang thayPaul Doumer, chủ trương mở mang học hành, lập các tổ chức y tế và hội thiện, Hauser được giao nhiệm vụ vận động và giúp đỡngười Việt làm đơn và thảo điều lệ xin phép lập trường học, hội đoàn, đệ lênphủ thống sứ để duyệt. Hauser giao hết việc này cho ông Vĩnh, vì vậy ông đã trở thành sáng lập viên của các hội và các trường thời bấy giờ như: TrườngĐông Kinh Nghĩa Thục,Hội Trí Tri, Hội Dịch Sách, Hội Giúp đỡ Người Việt sang Pháp học, v.v...
Dưới thời Toàn quyềnBeau 1902-1908, nhờ sự giúp đỡ của Hauser, Nguyễn Văn Vĩnh cùng với các bạn đồng chí hướng lần lượt làm đơn xin thành lập Hội Trí Tri (Hà Nội), Hội Dịch sách, Hội giúp đỡ người Việt đi sang Pháp du học, Đông Kinh nghĩa thục (ông là người thảo điều lệ, viết đơn xin phép, và sau đó là giáo viên dạychữ Quốc ngữ vàtiếng Pháp của trường).
Năm 1906, ông cùng Hauser sang Pháp lo việc tổ chức gian hàng Đông Dương (Cochinchine) tạiHội chợ thuộc địa ở Marseille. Được tận mắt chứng kiến nềnvăn minh phương Tây, ông trở về Việt Nam với quyết tâm phát triển ngành xuất bản trong nước mà đầu tiên là phát hànhbáo chí, để qua đó truyền bá chữ Quốc ngữ và bài bác các hủ tụcphong kiến lạc hậu, nhằm canh tân đất nước, vì vậy ông đã xin thôi làm công chức và trở thành nhà báo tự do. Cũng trong năm này, ông là ngườiViệt Nam đầu tiên gia nhập Hội nhân quyền Pháp.
Tiếp đó, ông được F. H. Schneider mời hợp tác và in ấn tờĐại Nam đồng văn nhật báo (Tờ báo hàng ngày của nước Đại Nam chung một văn tự), xuất bản bằngchữ Hán.
Năm1907, sau khi ra được 792 số, ngày 28/3/1907 tờ báo được đổi tên làĐăng Cổ Tùng Báo (Khêu đèn gióng trống) và in bằng cả hai thứchữ Nho vàchữ Quốc ngữ, ông được cử là chủ bút. Đây là tờ báotiếng Việt đầu tiên ởBắc Kỳ.
Lo ngại vì đường lối hoạt động củaĐông Kinh nghĩa thục,thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa trường vào tháng 11 năm 1907. Sau đó, họ còn cho bắt giamPhan Chu Trinh cùng một số các chí sĩ yêu nước là các giáo viên lãnh đạo của trường.
Nguyễn Văn Vĩnh là ngườiViệt Nam duy nhất cùng với bốnngười Pháp đồng ký tên đòi trả tự do choPhan Chu Trinh. Việc làm này cùng với việc ông đã dịch toàn bộ bài viết"Đầu Pháp chính phủ thư" của Phan Chu Trinh từ Hán văn ra Pháp văn. Bài này còn được gọi là"Thư trước tác hậu bổ" (Lettre de Phan Chu Trinh au gouverneur général en 1906), khiến Nguyễn Văn Vĩnh bị chính quyền thực dân gọi lên đe dọa gay gắt.
Với hàng loạt các vụ việc phản đối có tính vũ trang như vụKháng thuế Trung Kỳ (tháng 3/1908) và vụHà Thành đầu độc ở Hà Nội (tháng 6/1908), thực dân Pháp đã đóng cửaĐăng cổ tùng báo đồng thời cấm Nguyễn Văn Vĩnh diễn thuyết, lưu hành và tàng trữ các ấn phẩm của Phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Tuy nhiên, năm1908, ông được bầu vào Hội đồng thành phốHà Nội. Cùng năm này, ông xin ra tờNotre Journal (Nhật báo của chúng ta) xuất bản bằngtiếng Pháp.
Năm 1909 ông lại xin ra tờNotre Revue (Tạp chí của chúng ta) cũng bằng tiếng Pháp. Báo này ra được 12 số. Cùng năm đó, ông được mời vàoSài Gòn làm cố vấn cho tờLục tỉnh tân văn.
Năm1913 ông trở lại Hà Nội làm chủ bút tuần báoĐông Dương tạp chí (do Schneider sáng lập vào ngày 15/3/1913). Đây là tờ báo đầu tiên ởViệt Nam quy tụ được hầu hết các nhân sĩ hàng đầu cảNho học lẫn Tân học trong cơ quan biên tập của tờ báo, đồng thời cũng là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam dạy người dân cách làm văn bằngchữ Quốc ngữ. Sau đó, ông được bầu vàoHội đồng Tư vấn Bắc Kỳ (sau đổi làmViện dân biểu).
Năm1914 ông kiêm luôn chức chủ bút tờTrung Bắc tân văn cũng do Schneider sáng lập.
Sau ngày 15/9/1919,Đông Dương tạp chí ngừng xuất bản. Thay thế nó là tờHọc báo (tờ báo có chuyên đề vềgiáo dục,Trần Trọng Kim lo việc bài vở, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ nhiệm). Cũng trong năm này, ông Vĩnh mua tờTrung Bắc tân văn và cho ra hàng ngày (đây là tờnhật báo đầu tiên trong lịch sử báo chí ở Việt Nam).
Năm1927 ông cùng với E. Vayrac lập tủ sách Âu Tây tư tưởng (La pensée de l’Occident), rồi tổ chức in và phát hành các đầu sách do ông dịch thuật.
Năm1929 ông được bầu vàoHội đồng Kinh tế và tài chính Đông Dương.
Năm1931 ông lập tờL’Annam Nouveau (Nước Nam mới) in hoàn toàn bằng tiếng Pháp với mục đích bảo vệ chủ thuyết Trực trị do ông đề xướng và chống lại phái đối lập có chủ trương thực hiện đường lốiQuân chủ lập hiến. Đồng thời việc xuất bản bằngPháp văn không phải xin phép chính quyền theo luật định. Ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút cho đến khi mất1936. Tờ báo này đã đoạt được giải thưởng Grand Prix tạiHội chợ báo chí thuộc địa tổ chức tạiParis năm 1932.[cần dẫn nguồn]
Năm1932 ông đi dự họp Đại hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương tại Sài Gòn. Trong một buổi họp, ông đã thay mặt giới doanh nghiệp phản đối việc chuyển đồng tiền Đông Dương từngân bản vị sangkim bản vị, vì điều đó chỉ có lợi cho ngân hàng Pháp, nhưng lại có hại cho nền kinh tếĐông Dương.
Khi đang họp thì Nguyễn Văn Vĩnh nhận được trát của tòa án đòi tịch biên toàn bộ gia sản vì, sau nhiều lần "mặc cả" giữa Chính quyền và Nguyễn Văn Vĩnh, nhà cầm quyền đòi Nguyễn Văn Vĩnh phải chấp nhận 3 điều kiện sau:
Thay vì không chấp nhận các điều kiện trên, sẽ bị đòi nợ bằng hình thức xiết nợ (bắt buộc phải trả mặc dù khế ước vay là 20 năm) do đã vay một khoản tiền lớn củaNgân hàng Đông Dương dùng để mở Trung tâm sách Âu Tây tư tưởng năm 1927.
Năm1935 Chính quyền đổi ba điều kiện nêu trên với Nguyễn Văn Vĩnh còn tệ hại hơn và bắt buộc phải chọn một điều kiện, đó là:
Tháng 3 năm1936, Nguyễn Văn Vĩnh quyết định đi tìmvàng để trả nợ. Ông sangSê Pôn (Lào) với một người Pháp có tên là A. Climentte, người này lấy vợ Việt Nam, có đồn điền tại tỉnhHưng Yên và cũng đang ngập nợ vì làm ăn thua lỗ.
Ngày1 tháng 5 năm ấy (1936), người ta tìm thấy Nguyễn Văn Vĩnh một mình trêncon thuyền độc mộc, một tay vẫn cầm bút và tay kia cầm quyển sổ, trôi giữa dòngSê Băng Hiêng (tên một nhánh củasông Xê Pôn). Người dân địa phương đưa con thuyền cập vào chân cầu Sê Pôn để chuyển lên trạm y tế Sê Pôn cứu chữa, nhưng đã quá muộn.
Nhà cầm quyền loan báo: Nguyễn Văn Vĩnh chết ngày2 tháng 5 năm 1936 vìsốt rét vàkiết lỵ (lúc ấy ông 54 tuổi). Sau đó thi hài Nguyễn Văn Vĩnh đã đượcHội Tam điểm tổ chức đưa về Hà Nội để cử hành tang lễ trong 3 ngày, từ 6 đến 8 tháng 5 năm 1936. Tại buổi lễ tang, đông đảo giớibáo chí của cả ba kỳ đã đến tiễn đưa ông dưới dòng chữ:"Kính viếng Ông tổ của nghề báo"[3]. Về sau mộ phần của ông được con cháu đưa về quêPhượng Dực,Phú Xuyên.
Khi 18 tuổi ông kết hôn với người vợ cả là bà Đinh Thị Tính năm1900. Ngoài ra ông còn có hai người tình là vợ thứ.
Sản nghiệp lớn của ông Nguyễn Văn Vĩnh là ngôi nhà số 13-15Thụy Khuê bên cạnhhồ Tây. Cơ ngơi này từng thuộc sở hữu của ông Schneider, một công chức Pháp, từng công tác với Nguyễn Văn Vĩnh về làm báo. Sau 38 năm làm việc ởViệt Nam, năm 1918 ông đến tuổi về hưu. Vì cảm phục, yêu mến Nguyễn Văn Vĩnh, mà trước khi về Pháp, Schneider đã nhượng lại cho ông Vĩnh toàn bộ nhà in, cơ sở thiết bị và hai tờ báo (Trung Bắc tân văn vàHọc báo - tứcĐông Dương tạp chí đã bị Toàn quyềnSarraut đóng cửa). Ông trở thành chủ nhà in, chủ nhiệm hai tờ báo nói trên.
Nhờ có vốn, ông Vĩnh tậu ngôi nhà 13 và 15 ở Thụy Khuê, hướng gió mát Tây hồ để cho vợ con sinh sống. Nhưng đến năm1935 thì bị ngân hàng phát mại, hóa giá. Cuối cùng nhà của ông chủ báoĐăng Cổ tùng báo,Đông Dương tạp chí một thời sau này vẫn được chọn là Tòa soạn một tờ báo Việt Nam.[2]
Theo thống kê chưa đầy đủ, những công trình của Nguyễn Văn Vĩnh gồm có:
Những bài luận thuyết và ký sự sau:
Ngoài ra còn những bài dịch về: Luân lý học (khởi đăng trênĐông Dương tạp chí từ số 15) vàtriết học yếu lược (khởi đăng trênĐông Dương tạp chí từ số 28).
“ | Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ![3] | ” |
— Nguyễn Văn Vĩnh |