| Thống chế Điều bát | |
|---|---|
| Dung Ngọc hầu | |
Tượng Thống chế Điều bát trong đền thờ ông ở Trà Ôn | |
| Tên khác | Nguyễn Văn Tồn(chúa Nguyễn ban) |
| Tên húy | Thạch Duồng hay Thạch Duông |
| Cai cơ | |
| Nhiệm kỳ 1802 - 1811 | |
| Phẩm | Chánh tứ phẩm |
| Thống chế | |
| Nhiệm kỳ 1811 - 1819 | |
| Phẩm | Chánh nhị phẩm |
| Điều bát nhung vụ | |
| Nhiệm kỳ 1819 - 1820 | |
| Binh nghiệp | |
| Phục vụ | Nhà Nguyễn |
| Thuộc | Quân đội nhà Nguyễn |
| Năm tại ngũ | 1802 - 1820 |
| Chỉ huy | Thủy quân doanh |
| Tham chiến | Chiến tranh Nguyễn - Tây Sơn |
| Thông tin cá nhân | |
| Sinh | |
Tên húy | Thạch Duồng hay Thạch Duông |
Ngày sinh | 1763 |
Nơi sinh | làng Nguyệt Lãng, xã Bình Phú, huyệnCàng Long, tỉnhTrà Vinh |
| Mất | |
Ngày mất | 1820 |
Nơi mất | Trà Ôn, Vĩnh Long |
| Giới tính | nam |
| Gia quyến | |
Hậu duệ | Nguyễn Văn Vỵ |
| Tước hiệu | Dung Ngọc hầu |
| Nghề nghiệp | tướng lĩnh quân đội |
| Dân tộc | Khmer |
| Quốc gia | Đại Nam/Việt Nam |
| Thời kỳ | Lê trung hưng,Tây Sơn,Nguyễn |
| Truy phong | |
| Nơi thờ tự | |
Lăng ông Thống chế Điều bát | |
[sửa trên Wikidata]x • t • s | |
Thống chế Điều bátNguyễn Văn Tồn (Chữ Hán: 阮文存,1763–1820) là một danh tướng và nhà khai hoang đầu thờinhà Nguyễn tronglịch sửViệt Nam. Ông là người có công lớn trong việc giúpThoại Ngọc Hầu chỉ huy quân dân đàokênh Vĩnh Tế (Châu Đốc,An Giang) và giúp dân nhiều vùng trong tỉnhVĩnh Long &Trà Vinh khai khẩn đất hoang, thành lập nhiều xóm làng.
Nguyễn Văn Tồn nguyên gốc là ngườiKhmer, có tên làThạch Duồng,Thạch Duông[1] hoặcDuyên (không có họ),[2] sinh nămQuý Mùi (1763), tại làng Nguyệt Lãng, xã Bình Phú, huyệnCàng Long, tỉnhTrà Vinh, dưới thời chúa Võ vươngNguyễn Phúc Khoát.
Thời trẻ, ông được sung vào hàng dịch đình nô (người giúp việc trong phủ chúa), hết lòng tận tụy trung thành nên được cho chuyển làm Cai đội, lập nhiều công lớn. ChúaNguyễn Ánh ban cho ông tứ danh làNguyễn Văn Tồn.[3]
Năm Giáp Thìn (tháng 5 năm1784), ông cùng một số tướng tá theo chúaNguyễn Ánh chạy sang Vọng Các (Bangkok) tránh quânTây Sơn.[4]
Năm1787, ông trở về theoLê Văn Quân đánh Tây Sơn ở bảoBa Lai. Khi chúa Nguyễn Ánh trở về nước liền sai Nguyễn Văn Tồn chiêu dụ thêmngười Khmer ở xứTrà Vinh vàMân Thít để làm lính, gọi là đồn Xiêm binh (sau đổi thành đồn Uy Viễn).[2] Ông được giao quyền làm Nội thuộc Cai đội thống quản, đóng đồn tạiCầu Kè,Trà Ôn, tiến hành khai khẩn đất hoang để trồng trọt. Ông nhiều lần theo Lê Văn Quân vàVõ Tánh, lập được nhiều chiến công trong việc đánh dẹp Thái bảo Tây SơnPhạm Văn Tham.[5]
Năm1801, ông được lệnh theoVõ Tánh giữ thànhBình Định, bị quân Tây Sơn bắt, nhưng giả hàng rồi trốn thoát được, tìm cách về Nam, tiếp tục theo phò chúa Nguyễn dưới trướngNguyễn Văn Thành.
Khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu làGia Long (năm1802), ông được thăng làm Cai cơ, Chưởng quản thủy quân doanh, đưa quân bản bộ về quê, trấn giữ đồn Uy Viễn (Trà Ôn) thuộc đạo Trấn Giang (Cần Thơ) kiêm quản xuất hai phủ làTrà Vinh vàMân Thít thuộc dinh Vĩnh Trấn (Long Hồ dinh), tiếp tục công việc mở đất, tạo lập xóm làng, giữ gìn an ninh ở biên giới Tây Nam.
Năm1810, ông cùng Thoại Ngọc Hầu dẫn đại binh sang chiến đấu với quânXiêm ở thànhLongvek (Cao Mên). Thắng trận, ông được cử ở lạiNam Vang để giúp vua Cao MiênAng Chan II (Nặc Chân). Năm Gia Long thứ 10 (1811), ông được triệu về kinh để nhận ban thưởng và được thăng hàm Thống chế, tước Dung Ngọc hầu.[6]
Năm1813, ông trở về nước, lại cai quản vùng Trà Ôn,Cầu Kè, Trà Vinh, tiếp tục chiêu dân vùng Trà Ôn, Mang Thít khai khẩn đất hoang, thành lập xóm làng.
Năm1819, ông được triều đình bổ vào chức Điều bát nhung vụ, dẫn một đoàn dân binh Khmer khoảng 500 người, đếnChâu Đốc để cùng vớiThoại Ngọc Hầu,Tuyên Trung Hầu lo việc đàokinh Vĩnh Tế.
Do lao tâm, lao lực, mùng 4 tháng 1 nămCanh Thìn (tức27 tháng 2 năm1820), ông bị bệnh mất tạiTrà Ôn (Vĩnh Long).
Tưởng thưởng công lao, năm 1828, vuaMinh Mạng sắc phong ông làTrung đẳng thần, hàm ân Trung Dũng Thiên Trực, tướcDung Ngọc hầu. Vợ ông cũng được ban mỹ tự làHiền Thục Chi Thần Thống Chế Đại Quan.
Chức danhThống chế Điều bát[7] của ông, hiện nay đã được dùng để đặt tên cho một con đường dài và rộng tại thị trấn Trà Ôn (Vĩnh Long).

Khu lăngTiền quân Thống chế Điều bát rộng khoảng 8.000m2, hiện tọa lạc tại giồng Thanh Bạch thuộc ấp Mỹ Hòa, xã Thiện Mỹ, cách thị trấn Trà Ôn (Vĩnh Long) khoảng haicây số.
Khu lăng được xây dựng nămCanh Thìn (Minh Mạng nguyên niên,1820), gồm có hai phần chính là đền và mộ. Đền thờ gồm có: chánh điện (bên trong có tượng của ông, ảnh trên) võ ca và nhà khách. Phần mộ của ông bà nằm phía sau miếu thờ. Mộ (song táng) có lớp tường bao quanh, và cả hai đều được xây dựng bằng vật liệu chính làô dước.
TheoĐại Nam chính biên liệt truyện, thì Nguyễn Văn Tồn có một người con tên Nguyễn Văn Vỵ, làm Vệ úy ở đồnTịnh Biên (Châu Đốc). Sau, có người tố cáo Vỵ theoLê Văn Khôi chốngNguyễn, nhưng vì Vỵ đã chết và vì nhà vua Minh Mạng nghĩ tình cha nên không truy cứu tội con.
TheoĐại Nam thực lục:[8] Giáp Ngọ, năm Minh Mệnh thứ 15 [1834], ... Nguyễn Văn Vị, nguyên Phó quản đồn đồn Uy Viễn, đi theo quân triều đình đánh thành Phiên An. Nguyễn Văn Vị chế thuốc độc không hiệu quả nên bị phạt 80 trượng và điều về Vĩnh Long. Sau khi bình định được thành Phiên An[9]:
Năm 1835 ... Quan tỉnh Vĩnh Long tâu nói : “Nguyên quản đồn Uy Viễn là Nguyễn Văn Vị, trước đây, lầm lạc đi với giặc, theo luật, bố đáng phải tội lây. Vậy sắc cáo trục mà bố hắn là Nguyễn Văn Tồn đã được, có nên thu lại và tiêu hủy đi không”. Vua nói : “Nguyễn Văn Tồn, lúc đầu trung hưng, theo đi đánh giặc, rõ ràng có nhiều công lao, con hắn hư hỏng thì con đó phải chịu cái lo vào mình, chứ không thể xóa nhòa công của Tồn và không thể tiêu huỷ cáo trục của Tồn được. Vậy nên giao cáo trục cho thân nhân giữ lấy”. (Vị trước nhận chức ngụy Đô quản lĩnh, sau đem quân Phiên, theo quan quân, vây giữ trường lũy ; khi bị người tố giác bị giải về Kinh, chết ở dọc đường. Thân thuộc của Vị, đến đây, cũng gia ơn rộng tha).
Tuy nhiên, con cháu ông Tồn không còn được triều đình dành cho nhiều đặc ân nữa. Ngay việc hương hỏa cho ông,nhà Nguyễn cũng phó mặc cho dân địa phương. Mãi đến đầuthế kỷ 20, người dân nơi đây nghĩ tới công đức của ông, nên đã tự quyên góp trùng tu khu đền mộ và thành lập hội Mỹ Thanh để lo việc trông nom và cúng tế.
Hàng năm, vào ngày mùng ba, mùng 4 tháng Giêng (âm lịch) là lễ giỗ ông, được tổ chức rất long trọng, quy tụ hàng ngàn người dân xa gần thuộc ba dân tộc:Kinh,Hoa vàKhmer đến cúng bái.
Từ đó cho đến nay khu lăng được trùng tu nhiều lần và đã được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng di tíchLịch sử Văn hóa cấp Quốc gia vào ngày26 tháng 3 năm1996.

Trong sáchVăn học dân gian đồng bằng sôngCửu Long do Khoa Ngữ vănTrường Đại học Cần Thơ tổ chức sưu tầm và biên soạn, ở truyệnSự tích đền ông Duôn có đoạn:
Ở đây, dân gian nhớ chuyện của con (Nguyễn Văn Vỵ) lẫn lộn qua chuyện của cha. Bởi khiLê Văn Khôi làm binh biến năm1832, thì ông Duôn đã mất lâu rồi (1820). Đáng tiếc là sách biên khảo trên đã tái bản đến lần thứ hai, mà vẫn không có lời giải thích hay chú thích nào.