Nguyễn Thị Duệ | |
|---|---|
| Sinh | 1574 làng Kiệt Đặc,Bằng Châu,Dương Kinh,Việt Nam |
| Mất | 1654 Đông Kinh,Việt Nam |
| Quốc tịch | Việt Nam |
| Phối ngẫu | Mạc Đại Tông |
Nguyễn Thị Duệ (chữ Hán: 阮氏叡;[1] 1574-1654), hiệuDiệu Huyền, là một nữ danh sĩ Việt Nam vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII.
Nguyễn Thị Duệ, có tài liệu ghi làNguyễn Thị Du (阮氏游) hayDiệu Huyền, hoặcNguyễn Thị Ngọc Toàn (阮氏玉瓚),[2] sinh ngày14 tháng 3 năm 1574, người ở Kiệt Đặc (nay là phường Văn An, thành phốChí Linh, tỉnhHải Dương).
Bà là người tuyệt sắc, lại rất thông minh, 10 tuổi đã biết làm văn bài nên được nhiều nhà quyền quý đến xin hỏi cưới, nhưng gia đình không thuận. Năm1592, chúaTrịnh Tùng đem quân đánh chiếm kinh đôThăng Long,nhà Mạc chạy lênCao Bằng. Nguyễn Thị Duệ cùng gia đình đi theo.
Là một người hiếu học, song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được học hành thi cử, Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để dự việc đèn sách. Tương truyền, khoathi Hội nămGiáp Ngọ (1594)[3] bà mang tên giả làNguyễn Du đi thi và đỗ đầu khi tuổi vừa 20. Đến khi mở yến tiệc chiêu đãi các tân khoa, vuaMạc Kính Cung thấy vịtiến sĩ trẻ dáng vẻ mảnh mai, mặt mày thanh tú... nên sinh lòng ngờ vực, gạn hỏi và khám phá ra bà là gái giả trai. Bà cải trang đi thi như thế là phạm tội khi quân, nhưng vua Mạc không những không trừng phạt mà còn khen ngợi bà.
Sau đó, vua nhà Mạc vời bà vào cung để dạy các phi tần, rồi được tuyển làm phi:Tinh Phi (Sao Sa) ngụ ý khen bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao. Người ta quen gọi là "Bà Chúa Sao".[4]
Năm1625, quânLê -Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Nguyễn Thị Duệ vào rừng ẩn náu, bị quân lính bắt được. Mến tài,chúa Trịnh vẫn cho bà trông coi việc dạy học trong vương phủ. Năm 70 tuổi, Nguyễn Thị Duệ xin về nghỉ nơi quê nhà.
Bà qua đời ngày8 tháng 11 năm 1654, hưởng thọ 81 tuổi. Khi bà mất, người dân địa phương lập đền thờ, tôn bà làm phúc thần.
Khi còn làm việc quan, bà rất quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài. Phần lớn ở các kỳthi đình, thi hội; tất cả bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Mỗi tháng vài kỳ, bà cùng các bậc túc nho đến giảng dạy, ôn tập cho các sĩ tử. Ngoài ra, bà còn xin triều đình cấp nhiều mẫu ruộng tốt, cho canh tác lấy huê lợi, giúp đỡ học trò nghèo biết chăm chỉ.
Người ta còn truyền tụng câu chuyện: Thuở hàn vi, anh trai Nguyễn Thị Duệ bị người trong làng hãm hại, nhưng khi vinh hiển, bà không hề nghĩ đến thù riêng mà sát hại những người đó.
Một lần dự cuộc vui, Nguyễn Thị Duệ quen được hoàng hậuTrịnh Thị Ngọc Trúc (vợ vuaLê Thần Tông). Từ đấy, bà thường cùng hoàng hậu đi lễ chùa, gặp các nhà sư thông tuệ, đạo hạnh; gặp gỡ các sĩ phu có tài, nhưGiang Văn Minh, Khương Thế Hiền,... để hiểu rõ tình hình trong nước nhằm giúp vua, chúa kịp thời điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Do nhiều công lao, bà được thăng chức "Chiêu Nghi" hiệu là "Nghi Ái Quan".
Tuổi cao, Nguyễn Thị Duệ cáo quan về lại quê nhà, bà dựng amĐào hoa để có nơi đọc sách và bảo ban các sĩ tử trong làng.
Vua Lê giao cho bà số thuế hằng năm của tổng Kiệt Đặc để làm bổng lộc; bà chỉ dành một ít tiền chi dụng, còn bao nhiêu bà dành hết cho việc công ích và trợ giúp người nghèo.
Về sáng tác, theoCông dư tiệp ký củaVũ Phương Đề (1697-?), thì: "Văn thơ của bà rất nhiều, nhưng nay không còn bài nào. Bà có làm bàiGia ký bằngQuốc âm thuật lại các việc riêng và tự ví mình như Bạc Thị."[5]
BàiGia ký có mấy câu rằng:
Trên websitePhụ nữ Việt Nam viết:
Danh sĩ Vũ Phương Đề khen ngợi bà là:
Tháp mộ Nguyễn Thị Duệ trên đỉnh một quả đồi cạnh núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương). Cuối triều Lê,Tinh Phi cổ tháp được xếp vào hàngChí Linh bát cổ, trong đó có những câu:
Đình làng Kiệt Đoài có một pho tượng đẹp gọi là Vua Bà (tức Nguyễn Thị Duệ) và một sắc phong thờ phụng:"chánh vương phủ, thị nội cung tần, lế sư Nguyễn Thị Ngọc tôn thần. Người có công giúp nước, che chở cho dân...". Ngoài ra tại thôn Trung Hà, xã Nam Tân, huyệnNam Sách (đất phong của bà, khi địa phương này thuộc huyện Chí Linh) cũng có đền thờ bà gồm có tượng và sắc phong từ hơn 100 năm của các triều đại phong kiến Việt Nam, hiện vẫn còn tồn tại. Theo GSTS Nguyễn Lân Dũng, bà được coi làNữ tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam.[7]
Năm2004, có tám vị đại khoa củaHải Dương là hiền tài của đất nước được đúc tượng đồng và khám thờ, trong đó có nữTiến sĩ Nguyễn Thị Duệ. Bà được thờ cùngKhổng Tử tại hậu cungVăn miếu Mao Điền (Hải Dương).
Tháng 12-2020, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội quyết định đặt tên Nguyễn Thị Duệ cho một con phố ở Quận Cầu Giấy.[8]