Mikhael II (tiếng Hy Lạp:Μιχαήλ Β',Mikhaēl II;770 – 2.10.829), tên hiệu làAmoria (ὁ ἐξ Ἀμορίου) hayNgười nói lắp (ὁ Τραυλός hoặc ὁ Ψελλός), làHoàng đế Đông La Mã từ tháng 12 năm820 cho tới khi mất vàongày 2 tháng 10 năm829, nhà cai trị đầu tiên của triều đạiPhrygia hay Amoria.
Sinh trưởng ởAmorium, Mikhael lúc đầu chỉ là một tên lính quèn, về sau lập được nhiều chiến công nên leo dần tới thứ hạng cao trong quân đội cùng với đồng nghiệpLeon V gốc Armenia (trị vì813-820). Ông đã giúp đỡ Leon lật đổ và thế chỗ Hoàng đếMikhael I Rangabe. Tuy nhiên về sau hai người nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến việc Leon đã khép Mikhael vào tội chết. Mikhael không cam tâm chờ chết nên chủ mưu sai người ám sát Leon vào đêmGiáng Sinh năm820 rồi mau chóng lên ngôi. Ngay lập tức vị tân hoàng đế đã phải lo đối mặt với cuộc nổi dậy lâu dài củaThomasgốc Slav, khiến ông gần như phải trả giá bằng ngai vàng của mình và khó mà trấn áp nổi cho đến mùa xuân năm824. Những năm sau này của triều đại Mikhael II được đánh dấu bởi hai thảm họa quân sự to lớn để lại ảnh hưởng lâu dài cho đế quốc: bắt đầu sự kiệnngười Hồi giáo chinh phụcSicilia vàđảoKríti rơi vào tay ngườiSaracen. Về mặt đối nội, ông nhận được sự ủng hộ và tăng cường việc nối lại phong tràobài trừ thánh tượng chính thức vốn đã bắt đầu một lần nữa dưới thời Leon V.
Mikhael sinh vào năm 770 ởAmorium, tạiPhrygia, trong một gia đình nông dân-binh sĩ chuyên nghiệp đã nhận đất của chính phủ để đổi lấynghĩa vụ quân sự của họ. Gia đình ông thuộc phái Do thái-Kitô giáo nhánhAthinganoi mà các thành viên đều là ngườiCappadocia đã tiếp nhận nghi lễ của ngườiDo Thái. Athinganoi có rất nhiều tín đồ ở Anatolia cùng vớingười Hy Lạp vàngười Armenia giúp hình thành nên cột trụ củaquân đội Đông La Mã thời kỳ đó.
Mikhael lần đầu tiên nổi lên trong vai trò là phụ tá thân cận (spatharios) của tướngBardanes Tourkos, bên cạnh những đối thủ trong tương lai làLeon gốc Armenia vàThomas gốc Slav. Ông kết hôn với con gái của Bardanes làThekla, trong khi Leon cưới một người con gái khác. Mikhael và Leon đã bỏ rơi Bardanes ngay sau khi ông này nổi dậy chống lại Hoàng đếNikephoros I vào năm803, và họ đã được đền đáp bằng các chức vụ tư lệnh quân sự cao hơn: Mikhael được phong làBá tước Quân doanh (Komēs tēs Kortēs) của Hoàng đế. Mikhael chỉ là công cụ giúp cho Leon lật đổMikhael I Rangabe vào năm813, sau những thất bại quân sự liên tiếp của Rangabe chống lại ngườiBulgaria. Về sau ông còn được bổ nhiệm làm chỉ huy đội tinh binhtagma củaExcubitors dưới thời Leon V.
Ông trở nên bất mãn với Leon V kể từ lúc Hoàng đế ly dị em dâu của Mikhael. Vàođêm Giáng Sinh năm820, Leon V đã khép ông vào tội mưu phản, hạ lệnh bắt giam ông và kết án tử hình nhưng hoãn thi hành cho đến sau Giáng Sinh. Mikhael liền chuyển lời tới đồng bọn đe dọa tiết lộ danh tính của họ, nhân đó đám thuộc hạ đã đến phóng thích ông và sát hại Leon V đang lúc hoàng đế cử hành lễ Giáng Sinh tại giáo đường nhà thờ St. Stephen.
Nikephoros gửi thư cho hoàng đế Mikhael II nhằm ủng hộ phái tôn thờ thánh tượng. Tiểu họa từ cuốn Ioannis Skylitzes.
Mikhael được quần thần tôn làmHoàng đế ngay tức khắc trong khi vẫn còn bị xiềng xích quanh chân. Sau đó cùng ngày, ông đã được viênThượng phụTheodotos I thànhConstantinopolis làm lễ đội vương miện. Về chính sách đối nội của mình, Mikhael II tỏ ra ủng hộ việc bài trừ thánh tượng, nhưng ông lại mặc nhiên khuyến khích hòa giải với pháitôn thờ thánh tượng, như dừng lại việc khủng bố và cho phép họ trở về từ chốn lưu đày. Số này gồm nguyên Thượng phụNikephoros vàTheodore Stoudios, người đã thất bại khi cố sức khuyên nhủ hoàng đế từ bỏ phong trào bài trừ thánh tượng. Một trong số các nạn nhân trong chính sách của Hoàng đế là Thượng phụ tương laiMethodios I.
Việc Mikhael lên ngôi đã khơi gợi lòng tham muốn từ chiến hữu cũ của mình làThomas gốc Slav, ông này bèn tự lập làm hoàng đế đối nghịch ởAnatolia và chuyển quân thành công vào xứThracia và bắt đầu vây hãm thủ đôConstantinopolis vào tháng 12 năm821. Mặc dù Thomas không giành được sự ủng hộ nào từ một sốthema Anatolia, ông vẫn đảm bảo sự trợ giúp từ hải quân các thema và tàu chiến của họ, cho phép Thomas thắt chặt vòng vây tại Constantinopolis. Để tranh thủ được dư luận ủng hộ, Thomas bèn rêu rao mình là người bênh vực cho dân nghèo, cam kết giảm bớt thuế má và kết làm đồng minh vớiAl-Ma'mun củanhà Abbasid, rồi mới tự lập làm Hoàng đế với sự tham gia của viênThượng phụ AntiochiaJob.
Tiểu họa từ cuốn Madrid Skylitzes mô tả cảnh hoàng đế Mikhael II cho tống giam và trừng phạt Thomas người Slav.
Mikhael II cũng nhận được sự trợ giúp hữu hiệu của vuaOmurtag nướcBulgaria láng giềng. Nhờ đó mà ông đã ép Thomas phải từ bỏ vây hãm Constantinopolis vào mùa xuân năm823. Mikhael dồn hết quân của mình vây chặt lực lượng của Thomas ở Arkadiopolis (Lüleburgaz) và buộc ông ta phải đầu hàng vào tháng 10 cùng năm. Mikhael vốn dĩ được thừa hưởng một đội quân yếu kém và không thể ngăn chặn sự việc 10.000 quânẢ Rập (với 40 chiến thuyền),[1] đã thừa cơxâm chiếm đảoKríti vào năm824, dù hoàng đế đã cố tìm cách chiếm lại hòn đảo này qua cuộc viễn chinh năm826 nhưng đều chuốc lấy thất bại. Năm827, người Ả Rập lợi dụng tình trạng dân địa phương đấu đá hỗn loạn đã đem quân xâm chiếm Sicilia và kéo tới vây thànhSiracusa.
Sau cái chết của Thekla khoảng năm 823, Mikhael II đã kết hôn vớiEuphrosyne, con gái củaKonstantinos VI vàMaria xứ Amnia. Cuộc hôn nhân này có lẽ nhằm dự định củng cố vị thế Hoàng đế của Mikhael nhưng lại vấp phải sự chống đối trong hàng ngũ giáo sĩ, do trước đây Euphrosyne đã từng là một nữ tu. Ít lâu sau Mikhael II lâm bệnh qua đời vào ngày 2 tháng 10 năm 829.
Cái chết của hoàng đế Mikhael II. Tiểu họa từ cuốn Madrid Skylitzes
Do xuất xứ dân Do Thái-Kitô giáo và thuộc phái bài trừ thánh tượng, Mikhael II không được lòng giới giáo sĩChính Thống giáo, họ miêu tả ông như một tên nông dân dốt nát và kém học thức, nhưng Mikhael II thực chất lại là một chính khách và nhà quản lý tài ba. Ông đã mang lại sự ổn định cho toàn thểĐế quốc Đông La Mã lần đầu tiên trong nhiều thế hệ và bắt đầu khôi phục lại sức mạnh quân đội Đông La Mã. Hệ thống chính quyền và quân sự do một tay Mikhael II gây dựng nên đã cho phép đế chế dưới thời cháu nội của ông làMikhael III chiếm thế thượng phong trong cuộc tranh bá với vương triều Abbasid và đủ sức trụ vững trước những thăng trầm của đời sống cung đình Đông La Mã. Hậu duệ trực tiếp của Mikhael II,triều đại Amoria nối tiếp cái gọi làtriều đại Makedonia, đã trị vì đế chế trong hơn hai thế kỷ mở đầu cho thời kỳPhục Hưng Đông La Mã thế kỷ thứ 9 và thứ 10.