Bài viết nàycần thêmchú thích nguồn gốc đểkiểm chứng thông tin. Mời bạn giúphoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tớicác nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.(tháng 10/2024) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này) |
Mandopop | |
---|---|
Nguồn gốc từ loại nhạc | Âm nhạc Trung Hoa •Thời đại khúc •Nhạc Trung Quốc Phong •R&B •New wave •Nhạc pop •Nhạc hip hop •Nhạc rock |
Nguồn gốc văn hóa | Những năm 1920 – 1940 tại![]() |
Nhạc cụ điển hình | Giọng hát,nhạc cụ truyền thống Trung Hoa,dương cầm,vĩ cầm,guitar,trống,synthesizer,vocaloid |
Chủ đề liên quan | |
J-pop •K-pop •C-rock |
Mandopop (giản thể:华语流行音乐;phồn thể:華語流行音樂;bính âm:Huá yǔ liú xíng yīn yuè;Hán-Việt:Hoa ngữ lưu hành âm nhạc), viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Mandarin popular music", là dòngnhạc poptiếng Quan thoại và là một trong ba nhánh chính của dòng nhạcC-pop. Theo đúng tên gọi của nó, các ca khúc Mandopop được thể hiện chủ yếu bằng tiếng Hoa phổ thông (Quan thoại).
Mandopop phổ biến ở nhiều quốc gia châu Á như:Trung Quốc đại lục,Ma Cao,Hồng Kông,Đài Loan,Malaysia,Singapore,Việt Nam vàNhật Bản.
Trong thập niên 1970,Đài Bắc bắt đầu đảm nhiệm vị trí sân khấu trung tâm giống như dòng nhạcCantopop được nắm giữ tạiHồng Kông. Năm 1966, ngành công nghiệp âm nhạc Đài Loan tạo ra doanh thu 4,7 triệu đô la Mỹ hàng năm, và nó tiếp tục gia tăng theo hàm mũ xuyên suốt hai thập niên 1970 và 1980, và cho đến năm 1996, doanh thu đạt đỉnh ở mức dưới 500 triệu đô la Mỹ trước khi bị tuột giảm.[1] Thành công của ngànhcông nghiệp điện ảnh Đài Loan cũng giúp sức vào độ phủ sóng của các ca sĩ bản địa. Các ngôi sao Đài Loan nhưThái Cầm,Phí Ngọc Thanh vàPhượng Phi Phi ngày càng trở nên nổi tiếng, trong đó nữ danh caĐặng Lệ Quân là trường hợp nổi tiếng nhất. Tuy nhiên, tầm quan trọng của Hồng Kông ở vị trí trung tâm có nghĩa rằng một vài trong số các ngôi sao xứ Đài như Đặng Lệ Quân vẫn là dựa trên thị trường Hồng Kông.
Một số các ca sĩ xuất thân từTrung Quốc đại lục nhưVương Phi vàNa Anh bước đầu thu âm ca khúc tại Hồng Kông và Đài Loan. Vương Phi, vốn được giới truyền thông ca tụng là Diva (Nữ danh ca), lần đầu thu âm bài hát bằng tiếng Quảng Đông ở Hồng Kông, sau đó là thu bằng tiếng Quan thoại. Cô trở thành ca sĩ Hoa ngữ đầu tiên được biểu diễn tại sân khấuBudokan, Nhật Bản.[2][3]
Xuyên suốt thời kỳ này, nhiều ca sĩCantopop củaHồng Kông đơn cử như nhóm "Tứ đại thiên vương" -Quách Phú Thành,Lê Minh,Lưu Đức Hoa,Trương Học Hữu - bắt đầu thống trị giới âm nhạc Mandopop. Một trong những album tiếng Quan thoại bán chạy nhất đó là albumVẫn Biệt năm 1993 của nam ca sĩ Trương Học Hữu với số lượng bán ra trên 1 triệu bản tại Đài Loan và 4 triệu bản trên toàn châu Á.[4][5] Dẫu vậy, Đài Loan cũng có những ca sĩ nổi tiếng của riêng mình nhưTrương Thanh Phương,Ngũ Tư Khải,Châu Hoa Kiện vàTrương Tín Triết. Các hãng đĩa độc lập nhưRock Records tự củng cố vị trí của mình trong giai đoạn này như là một vài trong số những hãng đĩa có ảnh hưởng nhất. Cho đến cuối những năm 1990, những ca sĩ khác nhưVương Lực Hoành vàĐào Triết ngày càng trở nên nổi tiếng, vài người trong số họ cũng bắt đầu biểu diễn ở các thể loạiR&B và/hoặchip hop.
Trong giai đoạn từ giữa thập niên 1990 cho đến đầu thập niên 2000, hai thành phốThượng Hải vàBắc Kinh đã trở thành những trung tâm của ngành công nghiệp âm nhạc tạiTrung Quốc đại lục, trong đó Thượng Hải tập trung vào việc xuất bản và phân phối các bản thu âm, còn Bắc Kinh chuyên tâm vào công đoạn sản xuất, thu âm.[6]
Tại thị trường Hồng Kông,Tứ đại thiên vương dần biến mất ở thập niên 2000, tuy nhiên nhiều nghệ sĩ mới khác đơn cử nhưTạ Đình Phong vàTrần Dịch Tấn lại giữ vị trí dẫn đầu. Thập niên 2000 còn bắt đầu với sự bùng nổ của cácthần tượng đại chúng, mà nhiều người trong số họ đến từĐài Loan. TạiTrung Quốc đại lục cũng chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các ca sĩ, ban nhạc và nhóm nhạc thần tượng Mandopop khi nhạc pop ngày càng trở nênthịnh hành cho đến giữa thập niên 2000. Ngànhcông nghiệp điện ảnh đại lục vàphim truyền hình Trung Quốc đang lên cũng làm gia tăng nhu cầu phát triển dòng nhạc Mandopop.
Tuy nhiên, trong khi Trung Quốc đại lục ngày càng trở nên quan trọng trong việc tạo ra doanh thu thì bản thân nền công nghiệp nhạc pop tại đây vẫn còn khá khiêm tốn ở thập niên 2000 so với Đài Loan và Hồng Kông, bởi nhiều ngôi sao nhạc pop đến từ Đài Loan và những cộng đồng Hoa kiều hải ngoại khác vẫn rất nổi tiếng tại Hoa lục.[7][8] Các ca sĩ Mandopop nhưChâu Kiệt Luân nổi tiếng với việc thể hiện những ca khúc thuộc dòng nhạcR&B vàrap, góp phần truyền bá một phong cách pha trộn âm nhạc mới mang tên gọiTrung Quốc Phong. Những ca sĩ nổi tiếng khác có thể kể đến nhưTôn Yến Tư vàThái Y Lâm.
Những năm gần đây, sự nảy nở về số lượng các cuộc thi âm nhạc đã mang đếnkhái niệm thần tượng (chữ Hán: 偶像,bính âm:ǒuxiàng,Hán-Việt:ngẫu tượng) cho ngành công nghiệp Mandopop. Các cuộc thi ca hát toàn quốc tại Trung Quốc đại lục, ví dụ nhưSuper Girl,Super Boy,The Voice Trung Quốc,Chinese Idol vàThe X Factor: Trung Quốc Tối Cường Âm, đã thúc đẩy mạnh mẽ sức ảnh hưởng của dòng nhạc Mandopop, nhiều thí sinh nổi lên thành những ca sĩ thành công như:Tiết Chi Khiêm,Trương Lương Dĩnh,Diêu Bối Na,Lý Vũ Xuân,Trương Kiệt,Trần Sở Sinh,Ngô Mạc Sầu,Thượng Văn Tiệp, v.v... Hiện tượng tương tự cũng diễn ra tại Đài Loan, bước ra từ các chương trìnhSiêu Cấp Tinh Quang Đại Đạo vàSuper Idol, những ca sĩ tài năng mới đã dấn thân vào thị trường âm nhạc Mandopop, có thể kể đến như:Dương Tông Vĩ,Lâm Hựu Gia,Từ Giai Oánh và còn nhiều nghệ sĩ khác. Ở Đài Loan, thuật ngữ "thần tượng thực lực" (chữ Hán: 優質偶像,bính âm:yōuzhì ǒuxiàng,Hán-Việt:ưu chất ngẫu tượng) đã đi vào từ điển đại chúng, dùng để chỉ đến các ca sĩ Mandopop có ngoại hình ưa nhìn, đầy tài năng và có học vấn cao, đơn cử nhưVương Lực Hoành vàVy Lễ An.[9]
Những năm gần đây còn chứng kiến sức hấp dẫn xuyên eo biển nổi lên từ các nhóm nhạc nam và nữ thuộc dòng nhạcbubblegum pop của Đài Loan đã tiến vào thị trường đại lục Trung Quốc, bao gồm các nghệ sĩ vô cùng thành công về mặt thương mại nhưS.H.E vàPhi Luân Hải. Tiếp nối ánh hào quang của họ, nhiều nhóm nhạc khác cũng bắt đầu theo gót, ví dụ nhưLollipop (Bổng Bổng Đường) vàHey Girl (Hắc Sáp Hội Mỹ Mi) đến từ kênh truyền hìnhChannel V Đài Loan. Họ được chống lưng bởi các chương trình làm bệ phóng cho sự nổi tiếng. Ngoài ra còn có một vài nhóm nhạc nam hay nhóm nhạc nữ mới cũng đang nổi lên tại Trung Quốc đại lục như:Chí Thượng Lệ Hợp (Top Combine),TFBoys,SNH48 và các nhóm nhạc nam đến từ chương trình truyền hình thực tế sống cònIdol Producer (Thực tập sinh thần tượng) bao gồmNine Percent,NEX7 vàOner.
Tháng 8 năm 1996, tổ chứcIFPI Đài Loan (nay là Cơ sở Công nghiệp Thu âm tại Đài Loan) đã cho ra mắt giải vàng và giải bạch kim về lĩnh vực thu âm ca nhạc ởĐài Loan, cùng với Bảng xếp hạng IFPI Đài Loan vốn đã tạm ngưng từ tháng 9 năm 1999.
Các điều kiện về doanh số trong lĩnh vực thu âm ca nhạc mảng nội địa, mảng quốc tế cũng như khác biệt về đĩa đơn. TạiĐài Loan, doanh số ở mảng nội địa thì cao hơn mảng quốc tế cũng như các đĩa đơn. Lưu ý rằng việc cấp chứng nhận về thu âm ca nhạc ở Đài Loan được trao tặng dựa trên việc lưu chuyển.[10]
Chứng nhận | Trước tháng 3 năm 2002 | Trước tháng 1 năm 2006 | Trước tháng 11 năm 2007 | Trước tháng 1 năm 2009 | Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2009[11] |
---|---|---|---|---|---|
Vàng | 100.000 | 50.000 | 35.000 | 20.000 | 15.000 |
Bạch kim | 200.000 | 100.000 | 70.000 | 40.000 | 30.000 |
Chứng nhận | Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2009)[11] |
---|---|
Vàng | 5.000 |
Bạch kim | 10.000 |
Quốc tịch | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() |
---|---|---|---|---|---|
Các nghệ sĩ |
Quốc tịch | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() |
---|---|---|---|---|---|
Các nghệ sĩ |
|
Nguồn gốc | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() |
---|---|---|---|---|---|---|
Các nghệ sĩ | Phong cách bản địa: |
| ||||
Phong cách Hàn Quốc: | ||||||
Phong cách Nhật Bản: |
Trong khi những ca sĩ hạng A của Đài Loan và Hồng Kông thường xuyên nhận những hợp đồng trị giá hàng trăm triệu tệ, ca sĩ từ đại lục lại ảm đạm và cám cảnh hơn với con số đếm trên đầu ngón tay.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)[liên kết hỏng]