^ 2021 Malta census Chapter 4: Racial Origin according to the most recent national census. Meanwhile 77.8% of the population were Maltese citizens or nationals.[11]
^ Also .eu, shared with other European Union member states
Lịch sử lệ thuộc nước ngoài và vị trí giữa châu Âu và Bắc Phi của Malta có ảnh hưởng sâu rộng đến nghệ thuật, âm nhạc, ẩm thực và kiến trúc của Malta. Malta có mối quan hệ lịch sử, văn hóa gần gũi với Ý, đặc biệt làSicilia; 62-66% người Malta nói hoặc am hiểutiếng Ý, là ngôn ngữ chính thức của Malta từ năm 1530 đến năm 1934.[17][18] Malta là một trung tâm đầu tiên củaKitô giáo sơ khai vàCông giáo là quốc giáo của Malta, nhưng hiến pháp đảm bảo quyềntự do tôn giáo.[19][20]
Malta là mộtnước phát triển với một nền kinh tế thu nhập cao. Nền kinh tế Malta phụ thuộc vào du lịch dựa trên khí hậu ấm áp, các khu giải trí và các di tích kiến trúc, lịch sử, bao gồm baDi sản thế giới:Hầm mộ Ħal Saflieni,[21] Valletta[22] và bảyđền thờ cự thạch, là một trong những công trình đứng tự do lâu đời nhất trên thế giới.[23][24][25]
Ngày 21 tháng 9 năm 1964, Malta trở thành một nhà nước độc lập với quốc hiệuNhà nước Malta. Malta ban đầu là mộtvương quốc Thịnh vượng chung vớiElizabeth II là nữ vương Malta và toàn quyền là đại diện của nữ vương, thực hiện quyền hành pháp. Năm 1971,Đảng Lao động Malta doDom Mintoff thắng cử, dẫn tới việc Malta tuyên bố thành lập một nước cộng hòa vào ngày 13 tháng 12 năm 1974 trongKhối Thịnh vượng chung. Ngày 31 tháng 3 năm 1979, thỏa thuận đóng quân giữa Anh và Malta hết hạn,[26] Anh đóng cửa căn cứ quân sự và trả lại đất cho chính phủ Malta.[27]
Malta là mộtquần đảo nằm giữaĐịa Trung Hải (nằm ở lòng chảo phía đông). Chỉ có ba đảo lớn –đảo Malta,Gozo vàComino – là có người ở. Những đảo nhỏ (xem dưới đây) đều bỏ hoang. Quần đảo này là dấu tích của dải đất nối liềnSicilia vàBắc Phi, bị tách ra khi nước biển dâng cao ở cuốikỳ băng hà.[33] Quần đảo Malta nằm ở rìamảng kiến tạo Phi, nơi nó tiếp giáp với mảng Âu.[34]
Rất nhiều vịnh nằm dọc theo bờ biển lồi lõm tạo ra các cảng đẹp. Địa hình bao gồm đồi thấp và đồng bằng. Điểm cao nhất của Malta làTa' Dmejrek, cao 253 mét (830 ft), gầnDingli. Mặc dù có một vài sông nhỏ vào thời điểm có lượng mưa lớn, ở Malta không có một con sông hay hồ cố định nào. Tuy nhiên, có một vài suối chảy quanh năm ởBaħrija, l-Imtaħleb, San Martin, và thung lũng Lunzjata ở Gozo.
Malta cókhí hậu Địa Trung Hải,[36][37] với mùa đông không quá lạnh, mùa hè ấm nóng. Mưa nhiều vào mùa đông, mùa hạ nói chung khô hạn.
Nhiệt độ trung bình năm là 22–23 °C (72–73 °F) vào ban ngày và 15 °C (59 °F) vào ban đêm. Vào tháng lạnh nhất – tháng 1 – Nhiệt độ nằm trong khoảng 12 đến 20 °C (54 đến 68 °F) ban ngày và 7 đến 12 °C (45 đến 54 °F) ban đêm. Tháng nóng nhất là tháng 8, nhiệt độ nằm trong khoảng 28 đến 34 °C (82 đến 93 °F) ban ngày và 19 đến 24 °C (66 đến 75 °F) ban đêm. Nhìn chung mùa hè kéo dài 8 tháng, bắt đầu từ khoảng giữa tháng tư 19–23 °C (66–73 °F) vào ban ngày và 13–14 °C (55–57 °F) vào ban đêm, kết thúc vào tháng 11 với nhiệt độ khoảng 17–23 °C (63–73 °F) ban ngày và 11–20 °C (52–68 °F) ban đêm, mặc dù vậy, trong bốn tháng còn lại, nhiệt độ cũng có khi lên đến 20 °C (68 °F). Trong tất cả các thủ đô ở châu Âu, Valletta -thủ đô của Malta có mùa đông ấm nhất, với nhiệt độ trung bình khoảng 15–16 °C (59–61 °F) ban ngày và 9–10 °C (48–50 °F) ban đêm trong khoảng từ tháng Một đến tháng Hai. Vào tháng 3 và tháng 11, nhiệt độ trung bình khoảng 17 °C (63 °F) vào ban ngày và 11 °C (52 °F) ban đêm.[38] Rất hiếm những biến động đột ngột về nhiệt độ. Malta cũng là một trong số ít những nước châu Âu "xanh quanh năm".Nhiệt độ trung bình năm của nước biển vào khoảng 20 °C (68 °F) (cao nhất ở châu Âu), từ 16 °C (61 °F) vào tháng 1 đến 26 °C (79 °F) vào tháng 8.Trong cả sáu tháng – từ tháng 6 đến tháng 11 – nhiệt độ trung bình của nước biển lên đến 21 °C (70 °F).[39]
Khoảng 3.000 giờ nắng mỗi năm (cao hàng đầu châu Âu), từ trung bình trên 5 giờ mỗi ngày vàng tháng 12 đến trên 12 giờ vào tháng 6.[39] tức là khoảng gấp đôi so với thành phố nằm ở phía bắc của châu ÂuLuân Đôn – 1,461,[40] chênh lệch này còn lớn hơn vào mùa đông,Luân Đôn chỉ có 37 giờ nắng[40] trong khi khi Malta có 155 đến 167 giờ nắng vào tháng 12.
Dữ liệu khí hậu của Malta (Luqa tại phía đông nam của đảo Malta, 1991–2020)
Quốc hội gồm 65 đại biểu được bầu từ 13 đơn vị bầu cử 5 thành viên theo nguyên tắcphổ thông đầu phiếu bằng hệ thống một phiếu bầu có thể chuyển nhượng. Nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội là năm năm, trừ phi Quốc hội bị tổng thống giải tán theo đề nghị của thủ tướng hoặc sau khi Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với chính phủ. Malta có tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu cao thứ hai trên thế giới (và tỷ lệ cao nhất đối với một quốc gia không bắt buộc bỏ phiếu), dựa trên tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu từ năm 1960 đến năm 1995.[43]
Tổng thống lànguyên thủ quốc gia mang tính nghi lễ, được Quốc hội bầu ra với nhiệm kỳ năm năm. Tổng thống đương nhiệm là Myriam Spiteri Debono, được bầu vào ngày 27 tháng 3 năm 2024.[44] Tổng thống bổ nhiệm thủ tướng trong số đại biểu Quốc hội người có khả năng duy trì sự tín nhiệm của Quốc hội.[19]
Về mặt hành chính, Malta được chia thành sáu vùng, chính quyền vùng gồm Hội đồng vùng, là cấp trung gian giữa địa phương và trung ương.[45] Các vùng được chia thành 68hội đồng địa phương (54 tại Malta và 14 tạiGozo). Ngoài ra, Malta được chia thành sáu quận (năm tại Malta và Gozo) vì mục đích thống kê.[46]
Malta có một trong những tỷ lệ ủng hộLGBT cao nhất trên thế giới[47][48] và là quốc gia đầu tiên trong Liên minh châu Âu cấmliệu pháp chuyển đổi.[49] Ngoài ra, Hiến pháp Malta cấm phân biệt đối xử về khuyết tật.[50]
Pháp luật Malta cấmphá thai, ngoại trừ khi tính mạng hoặc sức khỏe của người mẹ gặp nguy hiểm. Malta vàBa Lan là hai thành viên Liên minh châu Âu duy nhất gần như cấm tuyệt đối thủ thuật phá thai.[51][52][53]
Với vị trí địa lý thuận lợi, Malta có tài nguyên thiên nhiên chính là đá vôi. Malta chỉ sản xuất 20% nhu cầu thực phẩm và thiếu nguồn nước ngọt. Nềnkinh tế Malta dựa chủ yếu vào trao đổi thương mại nước ngoài,du lịch, sản xuất đồ điện tử và dệt may, đóng và sửa chữa thuyền.
Năm 2015, 1,6 triệu du khách đến Malta,[56] gấp ba lần dân số của Malta. Năm 2019, Malta đạt mức kỷ lục 2,1 triệu du khách đến Malta trong một năm.[57]
Theo kết quả điều tra dân số năm 2021, dân số của Malta là 519.562 người, trong đó 386.280 người làngười Malta.[59] Những cộng đồng thiểu số theo nơi sinh bao gồm người Anh (15.082), người Ý (13.361), người Ấn Độ (7.946), người Philippines (7,784) và người Serbia (5,935). Thành phần dân tộc của người nước ngoài tại Malta bao gồm 58,1% là người da trắng, 22,2% là người châu Á, 6,3% là người Ả Rập, 6,0% là người châu Phi, 4,5% là người gốc Hispano và Latino, 2,9% có hơn một chủng tộc.[60]
Tiếng Malta và tiếng Anh là haingôn ngữ chính thức của Malta và tiếng Malta được coi làngôn ngữ quốc gia. Pháp luật được ban hành bằng tiếng Malta và tiếng Anh, trong trường hợp có xung đột giữa hai bản thì áp dụng bản tiếng Malta.[19]
Công giáo làquốc giáo và tôn giáo lớn nhất của Malta. Malta theo truyền thuyết đã có một lịch sử lâu dài 2000 năm gắn bó vớiKitô giáo, kể từ vụ đắm tàu củaSứ đồ Phaolô vào khoảng năm 60. Theo Văn phòng Thống Kê Trung ương củaTòa Thánh cuối năm 2008, Malta chỉ có 443,000 dân, trong đó có 418,000 (tức 94.4%) là tín hữuCông giáo Rôma chiếm 97% dân số. Malta có haigiáo phận và 85giáo xứ với 9Giám mục, 853linh mục, 1.143 tu sĩ, 1.231 giáo lý viên, 269 tiểu chủng sinh và 91 đại chủng sinh. Có 17.786 học sinh tham dự ở 80 trung tâm giáo dục Công giáo, từ mẫu giáo tớiđại học. Các hoạt động bác ái xã hội doCông giáo điều hành bao gồm 24 nhà chăm sóc cho người tàn tật và già yếu, 26 viện mồ côi và nhà trẻ, 9 trung tâm tham vấn về gia đình và phò sự sống, 24 trung tâm giáo dục và phục hồi, và 4 tổ chức các loại khác.[63]
^abcd"Constitution of Malta". Ministry for Justice, Culture and Local Government.Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2018. – Article 40: "all persons in Malta shall have full freedom of conscience and enjoy the free exercise of their respective mode of religious worship."
^"Malta".The World Factbook. Central Intelligence Agency.Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2007.
^Cilia, Daniel (2004).Malta Before History. Miranda Publishers.ISBN99909-85-08-1.
^Wolf, Eric R. (1984).Religion, Power and Protest in Local Communities: The Northern Shore of the Mediterranean. Walter de Gruyter GmbH & Co KG. tr. 206.ISBN978-3-11-086116-7.
^Protokol Lokali u Reġjonali(PDF) (bằng tiếng Malta). Dipartiment tal-Informazzjoni. tr. 5–6.Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2015.