Mắc ma là hỗn hợp củasilicat lỏng ở nhiệt độ và áp suất cao và là nguồn ban đầu của tất cả các loạiđá mắc ma. Nó có khả năng xâm nhập vào các lớp đá thuộc phần vỏ cạnh kề hay phun trào ra ngoài bề mặt. Mắc ma tồn tại ở khoảng nhiệt độ từ 650 tới 1.200 °C. Mắc ma chịuáp suất cao trong lòng đất và khi phun trào lên bề mặt đất qua các miệngnúi lửa ở dạngdung nham và chất phun tràonham tầng[3]. Các sản phẩm phun trào của núi lửa thông thường chứa các chất lỏng, các tinh thể và các khí không hòa tan mà trước đó chưa bao giờ ra đến mặt Trái Đất. Mắc ma tập trung thành nhiềulò magma riêng rẽ tronglớp vỏ Trái Đất và có thành phần khác nhau một cách đáng kể tại các khu vực khác nhau, nó có thể được tìm thấy ở cácđới hút chìm,đứt gãy haysống núi giữa đại dương hoặc trên cácđiểm nóng chứa các chùm đá nóng củalớp phủ. Sự hình thành mắc ma chỉ có thể diễn ra theo một số điều kiện đặc biệt tạiquyển astheno của Trái Đất.[4][5][6][7]
Sự suy giảm đột ngột củaáp suất có thể tạo ra sự nóng chảy do giảm áp. Điều này có thể diễn ra do các chuyển động kiến tạo hoặc do đá nóng chảy chuyển động làm phá hủy các đá xung quanh khi nó di chuyển lên các độ sâu thấp hơn trong lớp vỏ Trái Đất.Gradient địa nhiệt trung bình khoảng 25 °C/km với khoảng rộng từ thấp ở mức 5-10 °C/km trong phạm vi cácrãnh đại dương và các khu vực sút giảm tới cao ở mức 30-50 °C/km dưới các sống núi giữa đại dương và cáccung núi lửa. Tổ hợp của nhiệt độ cao và áp suất thấp gần môi trường bề mặt là điều kiện thuận lợi nhất để diễn ra sự nóng chảy do áp suất suy giảm.
Mắc ma cũng có thể được tạo thành do sự bổ sung của các chấtdễ bay hơi vào đá bị nung nóng. Các chất dễ bay hơi (nước và khí) được giải phóng từ cácmảng hút chìm của cáclớp vỏ đại dương, các chất này xâm nhập vào các lớp đá nằm phía trên và kích thích sự nóng chảy. Chúng có thể phá vỡ các liên kết khoáng vật bên trong đá nóng chảy và làm cho nhiệt độ nóng chảy giảm xuống tạo thành mắc ma.
Sự hình thành của mắc ma cũng có thể là kết quả của sự làm nóng chảy đá thuộc lớp vỏ bởi mắc ma đã tồn tại trước đó do mắc ma này có nhiệt độ cao hơn đến mức nó làm nóng chảy luôn cả đá của lớp vỏ khi nó dâng lên, điều này tạo ra nhiều mắc ma hơn nữa.
Mắc ma dâng lên chủ yếu là do khi đá nóng chảy có tỷ trọng thấp hơn so với đá rắn, nó bị đẩy lên trên qua thạch quyển bởisức nổi (theo cách thức giống như tấm gỗ có tỷ trọng thấp bị đẩy lên trên và trôi nổi trong nước nặng hơn). Quá trình này tạo ra cáclò magma và cuối cùng là núi lửa, mắc ma phun lên trên theo mọi hướng ra bề mặt Trái Đất trong các hoạt động phun trào núi lửa.
Thành phần của magma thay đổi phụ thuộc vào thành phần của đá nằm trên bị nóng chảy khi magma thâm nhập vào lớp vỏ Trái Đất và bị phun trào ra trong dạng của dung nham. Có ba dạng cơ bản của magma:mafic,andesit (hay trung gian) vàfelsic. Magma là hỗn hợp chủ yếu củasilica; các chất kiềm và kiềm thổ (natri,kali,calci,magiê) vàsắt. Nói chung, magma càng có tính chất mafic nhiều hơn thì sự phun trào càng êm ả hơn. Có điều này là do hàm lượngsilica cao làm cho các chất dễ bay hơi được tích lũy và có thể tạo ra các vụ phun nổ thường gặp ở cácnúi lửa phức hợp.
Các đặc trưng của các loại magma khác nhau như sau:
^Tên quy chuẩn lậpBản đồ địa chất Việt Nam làmagma. Bản đồ địa chất tỷ lệ 1:200.000, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản, Hà Nội, 2005.
^“Definition of Magma”.Merriam-Webster Dictionary. Merriam-Webster. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2018.
^Spera, Frank J. (2000), “Physical Properties of Magma”, trong Sigurdsson, Haraldur (editor-in-chief) (biên tập),Encyclopedia of Volcanoes,Academic Press, tr. 171–190,ISBN978-0126431407