Máytínhtương tự là một loạimáy tính sử dụng các khía cạnh có thể thay đổi liên tục của các hiện tượng vật lý như đại lượngđiện,cơ hoặcthủy lực đểmô hình hóa vấn đề đang được giải quyết. Ngược lại,máy tính kỹ thuật số biểu thị các đại lượng khác nhau một cách tượng trưng và bằng các giá trị rời rạc của cả thời gian và biên độ.
Máy tính tương tự có thể có mức độ phức tạp khác nhau.Thước loga vànomogram là các máy tính tương tự đơn giản nhất, trong khi hải quân máy tính kiểm soát súng và máy tính kỹ thuật số/analog lớn lai tạo là những máy tính tương tự phức tạp nhất.[1] Các hệ thốngđiều khiển quá trình vàrơle bảo vệ được sử dụng tính toán tương tự để thực hiện các chức năng điều khiển và bảo vệ.
Máy tính tương tự đã được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng khoa học và công nghiệp ngay cả sau khi máy tính kỹ thuật số ra đời, bởi vì vào thời điểm đó chúng thường nhanh hơn nhiều, nhưng chúng bắt đầu trở nên lỗi thời ngay từ những năm 1950 và 1960, mặc dù chúng vẫn được sử dụng trong một số các ứng dụng, chẳng hạn nhưmô phỏng chuyến bay,máy tính bay trongmáy bay và để giảng dạyhệ thống điều khiển trong các trường đại học. Các ứng dụng phức tạp hơn, chẳng hạn như bộ mô phỏng chuyến bay của máy bay vàradar khẩu độ tổng hợp, vẫn là lĩnh vực của điện toán tương tự (vàđiện toán lai) cho đến những năm 1980, vì số lượng máy tính kỹ thuật số là không đủ để giải quyết các nhiệm vụ này.[2]
Cỗ máy Antikythera, có niên đại từ 150 đến 100 TCN, là một máy tính tương tự đầu tiên.
TheoDerek J. de Solla Price,cỗ máy Antikythera là một máy tiên đoán trước vị trí của các thiên thể và được coi là một máy tính tương tự cơ học sơ khai.[3] Nó được thiết kế để tính toán các vị trí thiên văn. Cỗ máy này được phát hiện vào năm 1901 trongxác tàu Antikythera ngoài khơi đảoAntikythera của Hy Lạp, giữaKythera vàCrete, và có niên đại làk. 100 TCN trongthời kỳ Hy Lạp hóa của Hy Lạp. Các thiết bị mà có mức độ phức tạp tương đương với cỗ máy Antikythera sẽ không xuất hiện trở lại cho đến một nghìn năm sau.
Nhiều công cụ hỗ trợ cơ học để tính toán và đo lường đã được xây dựng để sử dụng trong thiên văn và điều hướng. Planisphere được Ptolemy mô tả lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên.Thước trắc tinh được phát minh ởthế giới Hy Lạp vào thế kỷ 1 hoặc 2 TCN và thường được cho là doHipparchus sáng chế. Là sự kết hợp củaplanisphere vàdioptra, thước trắc tinh thực sự là một máy tính tương tự có khả năng giải quyết một số loại vấn đề khác nhau trongthiên văn học hình cầu. Một thước trắc tinh kết hợp một máy tínhlịch cơ học[4][5] và các liên kết dùngbánh răng được Abi Bakr ởIsfahan,Ba Tư phát minh vào năm 1235.[6]Abū Rayhān al-Bīrūnī đã phát minh ra thước trắc tinhlịch âm dương có hộp số cơ học đầu tiên,[7] mộtmáy xử lý tri thứccó dây cố định ban đầu[8] với bánh răng liên kết,[9] khoảng năm 1000sau Công Nguyên. Cáctháp đồng hồ, một dạng đồng hồ thiên văn vận hành nhờthủy năng cơ khí đượcAl-Jazari phát minh năm 1206, là máy tính tương tự đầu tiên có khả nănglập trình.[10][11][12]
^Fuat Sezgin "Catalogue of the Exhibition of the Institute for the History of Arabic-Islamic Science (at the Johann Wolfgang Goethe University", Frankfurt, Germany) Frankfurt Book Fair 2004, pp. 35 & 38.
^Silvio A. Bedini, Francis R. Maddison (1966). "Mechanical Universe: The Astrarium of Giovanni de' Dondi",Transactions of the American Philosophical Society56 (5), pp. 1–69.
^D. De S. Price (1984). "A History of Calculating Machines",IEEE Micro4 (1), pp. 22–52.
^Tuncer Őren (2001). "Advances in Computer and Information Sciences: From Abacus to Holonic Agents",Turk J Elec Engin9 (1), pp. 63–70 [64].
^Donald Routledge Hill (1985). "Al-Biruni's mechanical calendar",Annals of Science42, pp. 139–163.