Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Lulu (ca sĩ)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lulu
Lulu on stage in Glasgow as part of Here Come the Girls 2010
Lulu on stage inGlasgow
as part ofHere Come the Girls 2010
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhMarie McDonald McLaughlin Lawrie
Tên gọi khácLulu Kennedy-Cairns
Sinh3 tháng 11, 1948(77 tuổi)
Lennoxtown,Stirlingshire, Scotland
Nguyên quánGlasgow, Scotland
Nghề nghiệp
  • Singer
  • songwriter
  • actress
  • television personality
  • businesswoman
Thể loại
Nhạc cụGiọng hát
Năm hoạt động1964–nay
Hãng đĩa
Website

Lulu Kennedy-Cairns,OBE (tên khai sinhMarie McDonald McLaughlin Lawrie; ngày 3 tháng 11 năm 1948) là một ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, nhân vật truyền hình và nữ doanh nhân người Scotland.

Cô được cả thế giới biết đến, nhưng đặc biệt là khán giả Anh vào những năm 1960. Sau này trong sự nghiệp, cô đã thành công trên toàn thế giới với bài hát "To Sir with Love" được thể hiện trongbộ phim cùng tên năm 1967 và với bài hát chủ đề cho bộ phimJames Bond năm 1974The Man with the Golden Gun. Ở các nước châu Âu, cô cũng được biết đến rộng rãi vớibài dự thi giành chiến thắngEurovision Song 1969 "Boom Bang-a-Bang", và ở Anh với bản hit "Shout" năm 1964, được trình diễn tại lễ bế mạc củaĐại hội thể thao Khối thịnh vượng chung 2014Glasgow

Cuộc đời và sự nghiệp

[sửa |sửa mã nguồn]

Marie McDonald McLaughlin Lawrie sinh ra ởLennoxtown,Stirlingshire và lớn lên ởDennistoun, Glasgow, nơi cô theo học tại Trường tiểu học Thomson Street và Trường Onslow Drive.[1] Cô sống ở Gallowgate một thời gian trước khi chuyển đến Phố Garfield, Dennistoun.[2] Ở tuổi 12 hoặc 13, cô và người quản lý của mình đã tiếp cận một ban nhạc có tên là Bellrocks tìm kiếm kinh nghiệm sân khấu như một ca sĩ. Cô xuất hiện cùng họ vào mỗi tối thứ bảy: Alex Thomson, người chơi bass của nhóm, đã kể lại rằng ngay cả khi đó giọng hát của cô đã rất đáng chú ý. Cô có hai anh trai và một chị gái, và cha cô là một người nghiện rượu nặng.[3] Ở tuổi 14, cô đã có nghệ danh "Lulu" từ người quản lý tương laiMarion Massey, người đã nhận xét: "Chà, tất cả những gì tôi biết là cô ấy là một đứa trẻ lulu thực sự.[a]"[5]

Vào tháng 8 năm 2017, lịch sử gia đình của Lulu là chủ đề của một tập trong loạt phim Vương quốc AnhWho Do You Think You Are? Nghiên cứu cho thấy mẹ cô đã được một gia đình khác nhận về nuôi dưỡng. Cuộc điều tra về gia phả của cô cho thấy ông bà ngoại của Lulu đến từ khắp nơi trong sự phân chia tôn giáo ở Glasgow. Ông nội của cô, Hugh Cairns là một người Công giáo và bà của cô, Helen Kennedy, là một người theo đạo Tin lành. Cairns đã từng là thành viên của một băng đảng Công giáo và được tìm thấy trong nghiên cứu đã vào và ra khỏi nhà tù vào thời điểm mẹ của Lulu chào đời. Kennedy được tìm thấy là con gái của một Người tình đáng giá của quý bà Orange Lodge 52; khám phá đã giải thích lý do tại sao hai gia đình đã phản đối sự kết hợp giữa Kennedy và Cairns.[6]

Các bài hát top hit ban đầu

[sửa |sửa mã nguồn]
Lulu năm 1965 trên trường quayFanclub, TV Hà Lan

Năm 1964, nhờ sự bảo trợ của Marion Massey, cô được ký hợp đồng vớiDecca Records. Khi cô mới mười lăm tuổi, phiên bản cover lại bài "Shout" của Isley Brothers, được ghi là 'Lulu & the Luvvers ' và dược hát với giọng trưởng thành hơi khàn của cô, đã xếp hạng thứ 7 trên bảng xếp hạng Vương quốc Anh. Massey đã hướng dẫn sự nghiệp của cô trong hơn 25 năm, trong phần lớn thời gian họ là đối tác kinh doanh. Chồng của Massey, Mark đã sản xuất một số bản thu âm của Lulu.[7]

Sau thành công của "Shout", ba đĩa đơn tiếp theo của Lulu đã thất bại khi không có mặt trên các bảng xếp hạng. Cô đã phát hành "Leave A Little Love" vào năm 1965, đưa cô trở lại Top Ten của Vương quốc Anh. Bản thu âm tiếp theo của cô, "Try to Understand", lọt vào Top 30.

Năm 1966, Lulu lưu diễn Ba Lan cùng ban nhạcThe Hollies với tư cách là nữ ca sĩ người Anh đầu tiên xuất hiện trực tiếp sauBức màn sắt.[8] Trong cùng năm đó, cô đã thu âm hai bài hát tiếng Đức; "Wenn du da bist" và "So finger es an" cho Decca Đức. Tất cả các bản ghi Decca của cô đã được phát hành vào năm 2009 trên bộ 2 đĩa CD mang tênShout!, được phát hành trênRPM Records. Sau hai bản hit vớiThe Luvvers, Lulu bắt đầu sự nghiệp solo.

Sau khi không đạt được các bảng xếp hạng vào năm 1966, Lulu rời Decca và ký hợp đồng vớiColumbia, với các bản thu được Mickie Most sản xuất. Cô trở lạibảng xếp hạng đĩa đơn của Anh vào tháng 4 năm 1967, đạt top 6 với "The Boat That I Row", được viết bởiNeil Diamond. Tất cả bảy đĩa đơn cô ấy hát do Mickie Most sản xuất đều được vào Bảng xếp hạng đĩa đơn của Anh. Tuy nhiên, trong cuốn tự truyệnI Don't Want To Fight, xuất bản năm 2002, cô đã mô tả anh là "rẻ tiền" và không còn gì để nói về mối quan hệ công việc của họ, mà cô đã kết thúc vào năm 1969 sau bản hit solo lớn nhất nước Anh. Tuy nhiên, khi Most qua đời vào năm 2003, Lulu đã hết lời khen ngợi anh và nói vớiBBC rằng họ đã rất thân thiết.[9]

Cô xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1967To Sir, with Love, một bộ phim của Anh choSidney Poitier. Lulu cả hai đã diễn xuất trong phim và hát bài hát chủ đề, và bài hát này một hit lớn ở Hoa Kỳ, đạt đến vị trí số 1. "To Sir with Love" trở thành đĩa đơn bán chạy nhất năm 1967 tại Hoa Kỳ, bán được hơn 1.000.000 bản; nó đã được trao mộtđĩa vàng,[10] và được tạp chíBillboard xếp hạng là bài hát số 1 của năm. Ở Anh, "To Sir With Love" đã được phát hành ởmặt B của "Let's Pretend", một bài hát lên top ở vị trí 11.

Ghi chú

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Definition oflulu byMerriam-Webster:slang: one that is remarkable or wonderful[4]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Kennedy-Cairns, Lulu (ngày 2 tháng 12 năm 2010).Lulu: I Don't Want To Fight. Sphere.ISBN 978-0751546255.
  2. ^She lived at 29 Garfield Street, according to an interview with theSunday Post newspaper published on ngày 5 tháng 4 năm 2015. The interview may be seen here"Archived copy".Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2015.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết) Retrieved ngày 29 tháng 6 năm 2015
  3. ^"Interview: Lulu, singer".The Scotsman. Edinburgh. ngày 9 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2015.
  4. ^"Definition ofLulu" (bằng tiếng Anh). Merriam-Webster. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2018.
  5. ^Room, Adrian (2012).Dictionary of Pseudonyms: 13,000 Assumed Names and Their Origins (bằng tiếng Anh) (ấn bản thứ 5). McFarland. tr. 298.ISBN 9780786457632.
  6. ^"TheGenealogist featured article on Lulu".TheGenealogist. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2017.
  7. ^Lulu,I Don't Want to Fight, Time Warner Books, 2002. p.214
  8. ^Kennedy-Cairns, Lulu (ngày 2 tháng 12 năm 2010).Lulu: I Don't Want To Fight. Sphere.ISBN 978-0751546255.
  9. ^Heard, Chris (ngày 9 tháng 6 năm 2003)."Entertainment | Stars' farewell to producer Most". BBC News. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2015.
  10. ^Murrells, Joseph (1978).The Book of Golden Discs (ấn bản thứ 2). London: Barrie and Jenkins Ltd. tr. 225.ISBN 0-214-20512-6.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Lulu_(ca_sĩ)&oldid=67527813
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp