Bài viết này có một danh sách các nguồn tham khảo, nhưngvẫn chưa đáp ứng khả năng kiểm chứng được bởi thân bài vẫn còn thiếu cácchú thích trong hàng. Hãy giúp cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung các chú thích nguồn cho các nội dung tương ứng.(tháng 3/2024) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này) |
| Chuyên đề |
| Lịch sử Việt Nam |
|---|
|
Loạn 12 sứ quân (chữ Hán: 十二使君之亂,Thập nhị sứ quân chi loạn) là một giai đoạn nội chiến diễn ra vào cuối thờinhà Ngô, kéo dài từ năm 944 sau khiNgô Quyền mất cho đến khiĐinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nươc lên ngôi Hoàng đế, lập ra nhà Đinh năm 968, được ghi chép trong phần Bản kỷ Ngô sứ quânNgô Xương Xí.
Cuộc loạn lạc này có nguyên nhân sâu xa từ quá trình phân hóa xã hội thời Bắc thuộc, dẫn đến việc xuất hiện tầng lớp thổ hào, quan lại có thế lực mạnh vềkinh tế,chính trị và tạo ra sự phân tán cát cứ. Thực chất của cuộcnội chiến này là việc đấu tranh giành quyền lực tối cao trên đấtTĩnh Hải quân của các thủ lĩnh địa phương khinhà Đường suy yếu,người Việt có cơ hội đứng lên tranh giành quyền lãnh đạo. Giai đoạn này có mầm mống từ đầuthế kỷ X và có cơ hội phát triển mạnh từ khiDương Tam Kha cướp ngôinhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng, nhiều người còn xưngVương như An vươngNgô Nhật Khánh, Vũ Ninh vươngNguyễn Thủ Tiệp, Quang Hiển quốc vươngKiều Thuận, Quảng Trí quânNguyễn Khoan hoặc tranh ngôi vua nhưLã Xử Bình,Dương Huy,Đỗ Cảnh Thạc,Kiều Công Hãn và đem quân đánh chiếm lẫn nhau.
Giai đoạn 12 sứ quân kéo dài hơn 20 năm (944–968) và kết thúc khiĐinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước, lập ra nhà nướcĐại Cồ Việt – Nhà nướcphong kiến tập quyền đầu tiên trong lịch sử của nước Việt Nam. Giống với thờiXuân Thu –Chiến Quốc của Trung Quốc vàChiến Quốc của Nhật Bản, giai đoạn này cũng có thể coi là một thời kỳ chiến quốc của Việt Nam.
Năm 905,nhà Đường suy yếu,Khúc Thừa Dụ là Hào trưởng Hồng Châu, được dân chúng ủng hộ, đã tiến quân ra chiếm đóng phủ thànhĐại La, tự xưng làTiết độ sứ. Họ Khúc đã mở đầu thời kỳ tự chủ của người Việt sau hơn 1000 năm Bắc thuộc.
Năm 906, tướng Nguyễn Nê theo lệnh vua Đường đem 7000 quân sangAn Nam đòi họ Khúc triều cống. Nguyễn Nê dựng bản doanh ở Thành Quả, lấy vợ Việt sinh ra ba con trai sau này là các sứ quânNguyễn Khoan,Nguyễn Thủ Tiệp vàNguyễn Siêu.[1] Cũng trong thời kỳnhà Đường suy yếu, nhiều thủ lĩnh Trung Hoa chạy loạn xuốngTĩnh Hải quân lập ấp mà con cháu họ sau này trở thành các sứ quân nhưĐỗ Cảnh Thạc vàTrần Lãm.
Năm 918,Khúc Hạo mất,Khúc Thừa Mỹ lên thay. Thừa Mỹ tỏ ra hèn yếu, bất lực nên dù đã cóĐại La (Hà Nội) vẫn không khống chế nổi các hào trưởng địa phương, mà phải cầu viện nhàHậu Lương (Trung Quốc). QuânNam Hán tiến sang, bắt Khúc Thừa Mỹ và đem vềQuảng Châu.
Năm 931, hào trưởngDương Đình Nghệ từ Ái châu đánh đuổi Thứ sử Lý Tiến của nước Nam Hán, giải phóng thành Đại La.Lưu Cung sai Trần Bảo mang quân sang tiếp viện.Dương Đình Nghệ chủ động mở cửa thành nghênh đón địch, tiêu diệt viện binh Nam Hán, chém chết Trần Bảo. Sau đó ông tự lập làm Tiết độ sứ, dùngNgô Quyền,Đinh Công Trứ (thân sinh củaĐinh Bộ Lĩnh),Kiều Công Tiễn làm nha tướng.
Năm 937,Kiều Công Tiễn, hào trưởngPhong Châu, một tướng dưới quyền đã giết hạiDương Đình Nghệ để cướp quyền với lý do Đình Nghệ là người gây ra cái chết củaKhúc Thừa Mỹ, chúa cũ của Tĩnh Hải quân.[2] Hai cháu nội Tiễn làKiều Công Hãn vàKiều Thuận sau này trở thành các sứ quân ở gần khu vực Phong Châu.
Năm 938,Ngô Quyền là con rểDương Đình Nghệ ra Đại La giếtKiều Công Tiễn rồi dẹp giặc Nam Hán ởsông Bạch Đằng, lên ngôi Vua, lập ranhà Ngô, dựng lại quyền tự chủ. Trong số các tướng có Sứ quânĐỗ Cảnh Thạc, Sứ quânKiều Công Hãn và Sứ quânPhạm Bạch Hổ. Tàn dư họ Kiều còn lại là Sứ quânKiều Thuận chạy về chiếm vùng núi Hồi Hồ và liên kết vớiMa Xuân Trường thâu tóm các tộc trưởng miền núi.
Năm 944,Ngô Quyền mất, con trai Dương Đình Nghệ làDương Tam Kha cướp ngôi, tự lập mình làm vua, xưng Dương Bình vương.Ngô Xương Ngập (con trưởngNgô Quyền) chạy về nhà một hào trưởng làPhạm Lệnh Công ở làng Trà Hương (Hải Dương).Dương Tam Kha ba lần sai quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà không được.
Từ khiDương Tam Kha lấy ngôi của nhà Ngô, thêm nhiều nơi không chịu thần phục. Đặc biệt là loạn ởhai thôn Đường - Nguyễn, nhiều thủ lĩnh nổi lên chống đối như Sứ quânNgô Nhật Khánh ở Đường Lâm (thôn Đường) và Sứ quânNguyễn Khoan nổi dậy ở Tam Đái (thôn Nguyễn), Sứ quânPhạm Bạch Hổ là con của Phạm Lệnh Công chiếm Đằng Châu, Sứ quânTrần Lãm chiếm giữ ở Bố Hải Khẩu.
Năm 950,Dương Tam Kha saiNgô Xương Văn (conNgô Quyền) đi đánh 2 thôn Đường Lâm và Nguyễn Gia Loan ở Thái Bình. Ngô Xương Văn cho rằng đây là các ấp vô tội và thuyết phục các tướng dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha. Xương Văn không giết Tam Kha, chỉ giáng xuống làm Chương Dương công.Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ởCổ Loa, cho người đón anh traiNgô Xương Ngập về cùng làm vua, là Thiên Sách Vương. Lúc đó cùng tồn tại hai vua là Thiên Sách Vương và Nam Tấn Vương, sử sách gọi là Hậu Ngô Vương.
Năm 951, Hậu Ngô Vương tiến đánhĐinh Bộ Lĩnh ởHoa Lư hơn một tháng không được đành mangĐinh Liễn về Cổ Loa làm con tin. Cũng từ đó Ngô Xương Ngập chuyên quyền, không cho Xương Văn tham dự chính sự nữa.
Năm 954,Ngô Xương Ngập bị bệnh thượng mã phong mà chết, chỉ còn một vua là Nam Tấn VươngNgô Xương Văn.
Sau khi Thiên Sách vương mất, thủ lĩnh ở quận Thao Giang là Chu Thái quật cường không thần phụcnhà Ngô. Nam Tấn vương thân chinh đi đánh, chém được Chu Thái.[3] Cũng sau thời gian này, Ngô Xương Văn đi đánh giặc Lý Huy/Dương Huy ở châu Tây Long, đóng quân ở cửa Phù Lan, suốt tháng trời giặc tan mới rút quân trở về.
Năm 965,Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường tức Đường Lâm của sứ quânNgô Nhật Khánh và thôn Nguyễn Gia Loan của sứ quân Nguyễn Thái Bình bị phục binh bắn nỏ chết.[4] KhiNgô Xương Xí nối ngôi,Ngô Nhật Khánh là anh em cùng họ cũng kéo quân từ Đường Lâm về Cổ Loa tranh giành.[5]
Cũng trong năm 965, Thứ sử Phong ChâuKiều Công Hãn kéo quân về triều đìnhCổ Loa cùng tranh ngôi vua vớiLã Xử Bình,[6][7] con của Ngô Xương Ngập làNgô Xương Xí phải lui về giữ đất Bình Kiều, trở thành Ngô Sứ quân. Theo sử giaNgô Thì Sĩ "thì lúc đó Nam Tấn mới mất, trong nước rối ren,Đinh Liễn có công dẹp loạn, lại được phong tước, chứ chẳng như những con tin tầm thường nhân lúc loạn lạc mà trốn về".Đinh Liễn sau 15 năm làm con tin ở Cổ Loa đã trở vềHoa Lư, cùng cha làĐinh Bộ Lĩnh sang đầu quân cho Sứ quânTrần Lãm ở Thái Bình.
Năm 966, Thứ sửDương Huy, Thứ sửKiều Công Hãn, Tham mưuLã Xử Bình và Nha tướngĐỗ Cảnh Thạc tranh nhau làm vua.[8]Đinh Bộ Lĩnh giết đượcLã Xử Bình, kiểm soát được thành Cổ Loa. Các tướngKiều Công Hãn,Đỗ Cảnh Thạc thua chạy về Phong Châu và Đỗ Động, nổi dậy thành sứ quân.
Các sứ quân ra mặt đánh chiếm lẫn nhau:Phạm Bạch Hổ tấn côngTrần Lãm,Lã Đường tấn côngĐỗ Cảnh Thạc;Kiều Công Hãn tấn côngNguyễn Khoan;Nguyễn Thủ Tiệp giếtDương Huy chiếm Vũ Ninh và tự xưng là Vũ Ninh vương.[9]
Năm 967, Sứ quânTrần Lãm mất, Sứ quânNgô Nhật Khánh từ Đường Lâm, Đỗ Động Giang tập hợp 500 con em Ngô Tiên chúa đánh Bố Hải Khẩu, khi đến đất Ô Man thì bị Ngô phó sứ chặn đánh phải bỏ về.[10] Đinh Bộ Lĩnh liền cất quân đi đánh, không bộ lạc nào ở đó không hàng phục. Các sứ quânPhạm Bạch Hổ,Ngô Nhật Khánh,Ngô Xương Xí đem quân về hàng, lực lượng họ Đinh ngày càng lớn mạnh. Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp các sứ quânĐỗ Cảnh Thạc,Nguyễn Siêu,Nguyễn Khoan,Kiều Công Hãn,Kiều Thuận.
Năm 968,Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục đánh dẹp các sứ quânLý Khuê,Lã Đường và thống nhấtTĩnh Hải quân, lên ngôi Hoàng đế ởkinh đô Hoa Lư, chính thức lập ra triều đạinhà Đinh tronglịch sử Việt Nam.

Đến năm 966, hình thành đầy đủ 12 sứ quân chiếm giữ các địa phương:
TheoViệt sử kỷ yếu:"Từ khi Dương Tam Kha chiếm vị xưng vương, lòng người không phục. Các thổ hào có quân đội hùng cứ mỗi người một phương, chiếm giữ quận ấp, xung đột tranh giành ảnh hưởng, tiêu diệt lẫn nhau. Một nước phân liệt chia thành nhiều giang sơn. Quốc sử chép là Thập nhị sứ quân. Con số 12 đây là không kể các tù trưởng miền rừng núi và mấy thố hào ít nổi tiếng".[11]
Có ý kiến cho rằng số sứ quân trên mang tính ước lượng cho phù hợp với con số 12 châuTĩnh Hải quân vì theo các tài liệu lịch sử và thần tích còn lưu lại, một số nhân vật tương tự nhưng không được kê vào danh sách sứ quân trên. Điển hình như cuốnTục tư trị thông giám trường biên củaLý Đảo (Trung Hoa) ghi:
Có thể trong số các nhân vật:Lã Xử Bình,Dương Huy,... hoặc không có thực ấp, không phải là thổ hào, thứ sử hoặc đã chết tại thời cực thịnh của 12 sứ quân.
Theo cuốn "Gốc và Nghĩa từ Việt thông dụng" của Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin năm 1998 thì từ "Sứ quân" được dịch là"Vua cai trị" (sứ: cai trị, quân: vua). Ở Trung Hoa, Sứ quân còn là cách gọi tôn xưng dành cho người nắm giữ chức đầu của một châu mục nào đó, tức Thứ sử (Theo định nghĩa của từ điểnTừ nguyên).[12] Cách gọi này được dùng trong các văn bản từ đời Hán cho đến đời Thanh.
Trong các sứ quân trên:
Các sứ quân thường được mô tả thân hình dũng mãnh, khí phách anh hùng như:Phạm Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ như hổ, thông minh hơn người, văn võ song toàn;Đỗ Cảnh Thạc bị bọn cướp xẻo mất một bên tai, lòng căm thù sôi sục, quyết tìm thầy học võ;Nguyễn Thủ Tiệp mình dài tiếng to, ai nghe thấy tiếng nói cũng phải giật mình, người ta gọi là ông Sấm;[15]Kiều Thuận khi sinh ra có ánh sáng lạ tràn ngập khắp ngôi nhà;Nguyễn Siêu chết trôi sông 3 tháng không nát, nước da vẫn tươi nguyên...
Cuốn chính sử Việt Nam "Lịch triều hiến chương loại chí" trang trọng xếp 12 sứ quân vào danh sáchdòng chính thống các bậc đế vương. Trong số các sứ quân cai trị ở vùng chiếm đóng, nhiều người đã xưngVương hoặc được tôn xưng là Vương như:
Tuy nhiênNgô Xương Xí, tứcNgô sứ quân là con vua Ngô Xương Ngập nhưng do thế lực yếu, không tự xưng Vương cũng không được nhân dân suy tôn làm vua. Trong danh sách những vị Quân chủ Việt Nam thì ông không được thừa nhận.[19]
Ngoài trừ vị trí Bình Kiều của Ngô Xương Xí và Hồi Hồ củaKiều Thuận thuộc vùng núi, nhà nghiên cứu Lê Văn Siêu chỉ ra rằng hầu hết lãnh địa của các sứ quân đều dọc theosông Hồng vàsông Đuống, nơi có ruộng đất phì nhiêu, dân cư đông đúc và thuận tiện giao thông đường thủy.[20] Lê Văn Siêu cho rằng loạn 12 sứ quân trong đó nhiều sứ quân nổi dậy không hẳn vì lý do tranh bá đồ vương mà có thể vìlý do kinh tế;[21]Đại Việt sử ký toàn thư ghi về sự kiện này:
Có tới 5 sứ quân vốn là người gốc Hoa ở phương Bắc chạy loạn về phía nam để thử thời vận và không được sự hậu thuẫn nào từ chính quốc. Các sứ quân này cũng như các sứ quânngười Việt khác, không chủ trương mở đất làm rộng căn cứ mà chỉ cố thủ ở nơi hiểm yếu để chờ biến cố từ phương Bắc.[23] Ông cho rằng chỉ có hai sứ quân họ Ngô thực sự có ý đồ khôi phục nhưng lực lượng nhỏ yếu không đủ để thống nhất.[24]
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sơn cho rằng loạn sứ quân không phải một ngày mà có. Trong thời họ Khúc, họ Dương và họ Ngô cầm quyền, các thế lực phong kiến cát cứ không dám cựa quậy, vì các vị lãnh đạo quốc gia bấy giờ được nhân dân hoàn toàn cảm phục. Họ Khúc nổi tiếng về đức độ và lòng ái quốc. Họ Dương, họ Ngô là những anh hùng giải phóng dân tộc. Dân chúng đâu có chịu vì những kẻ mưu đồ quyền lợi riêng tư để chống lại với các thủ lĩnh uy danh sáng ngời đó. Nhưng khi Ngô Quyền qua đời, Dương Tam Kha phụ lời ủy ký, mối biến loạn đã có sẵn nay mới có cơ hội để bột phát.[25]
Giáo sưTrần Quốc Vượng coi thời kỳ loạn 12 sứ quân như là "Sự hoài cổ tiền Bắc thuộc".[26] Theo Giáo sư, thế kỷ X là một sự đảo lộn chính trị, nhưng khuynh hướng chính là tiến bộ, tiến tới nền tự chủ của nước nhà. Nhiều sử sáchTrung Hoa đã nói: "Dân Việt rất khó cai trị, rất thích làm loạn". Chính quyền trung ương quân chủnhà Đường suy yếu và sụp đổ hoàn toàn vào năm 907 đểTrung Hoa mở ra cục diện "Ngũ đại Thập quốc" kéo dài hơn nửa thế kỷ. Đấy là thời cơ thuận tiện để dân Việt nổi dậy dành chính quyền tự chủ mà khởi đầu làhọ Khúc ở Hồng Châu vốn là một hào trưởng địa phương. Lợi dụng sự trống chỗ của Tiết độ sứ cai quản An Nam, Khúc Thừa Dụ đã nổi dậy kéo quân về Đô hộ phủ và tự xưng Tiết độ sứ năm 905.Khúc Thừa Dụ mất năm 907, con ông là Khúc Hạo chỉ để tang cha có 7 ngày đã bắt tay cầm quyền trị nước, cải cách hành chính, giảm tô thuế để sinh lợi cho dân. Nhưng đến Khúc Thừa Mỹ hèn yếu, bất lực và thần phục nhà Hậu Lương là một trong ngũ đại ởTrung Hoa, Khúc Thừa Mỹ đã đi bước lùi của lịch sử vì đã cóĐại La (Hà Nội) vẫn không khống chế nổi các hào trưởng địa phương, phải cầu viện ngoại viện nhà Lương. Quân Nam Hán tiến sang, bắt Khúc Thừa Mỹ và đem vềQuảng Châu. Nhưng lại có hào trưởng ở Ái Châu là Dương Đình Nghệ diệt tướng Nam Hán, xưng Tiết độ sứ. Hào trưởng Châu Phong là một thế lực lớn ngoại biên gầnchâu thổ sông Hồng đã kéo quân giết Dương Đình Nghệ. Ngô Quyền - là con rểDương Đình Nghệ - đã kết liễuKiều Công Tiễn rồi dẹp giặc bên Nam Hán ởsông Bạch Đằng, dựng lại quyền tự chủ. Sử cũ ghi chép chuyện đánh lẫn nhau rồi bên yếu cầu ngoại viện. Thực chất của cuộc nội chiến này là sự đấu tranh giành quyền lực tối cao trên đất Việt của các thủ lĩnh địa phương. Chính quyền quân chủ Trung ương nhà Đường suy tàn rồi biến mất tạo ra một khoảng trống quyền lực ở đất Việt (An Nam đô hộ phủ), một cái "hẫng hụt trung ương" mà nhiều hào trưởng địa phương có tham vọng điền vào chỗ trống ấy.
Do vậy thời kỳ "Thập nhị sứ tướng quân" không chỉ như là một cuộc loạn sau thờiNgô Quyền mất. Cái "loạn" ấy có mầm mống ngay sau năm 905, hay còn từ trước đó nữa vì trong số 12 sứ quân mà sử cũ chép theo nhau có đến 2 ông sứ quân họ Kiều là cháu nội của Kiều Công Tiễn ở Phong Châu, 2 ông sứ quân họ Ngô thuộc dòng dõi Ngô Quyền, 3 ông họ Nguyễn là con của tướng Bắc triều và ông sứ quân họ Đỗ -Đỗ Cảnh Thạc mà từ đời Đỗ Viện - Đỗ Tuệ Độ thế kỷ thứ IV đã là một thế lực lớn ở Đỗ Động Giang (Thanh Oai –Hà Nội)...
Loạn 12 sứ quân dẫn đến tình trạng xóa bỏ chính quyền Trung ương, xu hướng chia cắt phân tán lực lượng tạo điều kiện thuận lợi cho các thế lực xâm lược mà trực tiếp là cường quyền Trung Hoa thâu tóm và khôi phục lại ách đô hộ cũ. Cuốn "Lịch sử Việt Nam" của Ủy ban Khoa học xã hội năm 1971 viết:
Việc vuaĐinh Tiên Hoàng khôn khéo kết hợp dùng võ công và biện pháp chiêu hàng các sứ quân để sớm chấm dứt loạn 12 sứ quân là rất kịp thời, vì không lâu sau đónhà Tống duỗi tới Quảng Châu, diệt nướcNam Hán (971), áp sát biên giớiĐại Cồ Việt. Nếu không có sự xuất hiện củaĐinh Bộ Lĩnh để thống nhất quốc gia bị chia sẻ tan nát thì Việt Nam khó thoát khỏi họa xâm lăng từ phương Bắc tái diễn khinhà Tống hoàn thành việc thống nhất Trung Hoa.
Đinh Bộ Lĩnh là conĐinh Công Trứ làm quan Thứ sử ởHoan Châu. Cha mất sớm, ông theo mẹ về quê sinh sống nương nhờ người chú ruột. Lớn lên,Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở vùngHoa Lư chờ thời cơ đến. Đầu tiên ông mở rộng căn cứ của mình từ vùng rừng núiHoa Lư ra vùng đồng bằng ven biểnsông Hồng bằng cách cùng con trai làĐinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của Sứ quânTrần Minh Công, tức Trần Lãm, ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình). Sau đó ông được Trần Minh Công trao binh quyền, đưa quân vềHoa Lư, chiêu mộ binh lính, chốngnhà Ngô và các sứ quân khác.
Cuộc chiến thắng của họ Đinh thật vang dội và đã quyết định tình thế thời bấy giờ vì những hào kiệt của Giao Châu hầu hết đều có mặt dưới cờ củaĐinh Bộ Lĩnh (Giao Châu thất hùng gồm:Đinh Bộ Lĩnh,Đinh Liễn,Lê Hoàn,Đinh Điền,Nguyễn Bặc,Phạm Hạp,Phạm Cự Lạng). Sau những chiến công oanh liệt liên tiếp ông được dân chúng tôn làmVạn Thắng Vương.[27]
Trong nhiều trường hợp, hoàn cảnh, tùy vào thực trạng mỗi sứ quân màĐinh Bộ Lĩnh tìm cách đánh thích hợp, hoặc bằng quân sự, hoặc bằng liên kết, hay dùng mưu dụ hàng.
Năm 965, sau khi Ngô Xương Văn mất, các lực lượng củaLữ Xử Bình,Kiều Công Hãn,Đỗ Cảnh Thạc,Dương Huy cùng tranh lập ở triều đìnhCổ Loa. Với sự trợ giúp của con traiĐinh Liễn trước đó từng bị hai vua Hậu Ngô vương bắt làm con tin,Đinh Bộ Lĩnh chính thức khởi đầu chiến dịch đánh dẹp của mình. Năm 966, phe Lã Xử Bình bị tiêu diệt, Đinh Bộ Lĩnh kiểm soát được Cổ Loa và đuổi các thế lực tranh lập khác khỏi kinh đô.
Sứ quânĐỗ Cảnh Thạc là một sứ quân rất mạnh, có thành cao hào sâu. Theo thần phả, Đỗ Cảnh Thạc là người trí dũng mưu lược,Đinh Bộ Lĩnh phải bàn mưu tính kế mà đánh. Ban đêm,Đinh Bộ Lĩnh cho quân bao vây 4 mặt thành và tiến đánh bất ngờ vào Trại Quyền. Bấy giờĐỗ Cảnh Thạc đang ở đồn Bảo Đà, quân tướng không ứng cứu được nhau, bị mất cả thành lũy, đồn trại, lương thực bèn bỏ thành chạy. Hai bên giao tranh hơn một năm sau,Đinh Bộ Lĩnh hạ được thành.Đỗ Cảnh Thạc bị trúng tên chết.
Sứ quânKiều Công Hãn đóng tạiPhong Châu. Trước thế mạnh của Sứ quânĐinh Bộ Lĩnh, Kiều Công Hãn đem quân xuống phía nam để hợp sức vớiNgô Xương Xí. Khi đến thôn Vạn Diệp (xã Nam Phong,Nam Trực,Nam Định) bị một hào trưởng địa phương làNguyễn Tấn đem quân chặn đánh,Kiều Công Hãn bị thương chạy đến Lũng Kiều thì mất.[28]
Sứ quânNguyễn Siêu chiếm Tây Phù Liệt (Thanh Trì,Hà Nội). Được tinĐinh Bộ Lĩnh sắp đánh,Nguyễn Siêu đem 1 vạn quân đóng ở Thanh Đàm dùng Nguyễn Trí Khả làm tiên phong, Trần Côn làm tá dực, Nguyễn Hiền làm tổng quản các đạo quân, ngày đêm luyện tập, đào hào đắp lũy để phòng bị. Trong trận giao tranh đầu tiênĐinh Bộ Lĩnh bị mất 4 tướng làNguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết và Cao Sơn. Lần thứ 2Đinh Bộ Lĩnh bày binh bố trận giao chiến, Nguyễn Siêu chia một nửa quân ở lại giữ thành, một nửa cùng sứ tướng vượt sông Hồng tìm viện binh của các sứ tướng khác. Gần tới bờ bắc, gặp gió lớn, thuyền bị đắm.Đinh Bộ Lĩnh biết tin, bèn sai võ sĩ nửa đêm phóng lửa đốt doanh trại. Quân Nguyễn Siêu tan, Nguyễn Siêu tử trận.[29]
Sứ quânNguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du cũng không chống nổiĐinh Bộ Lĩnh, bỏ chạy về Cần Hải (Cửa Cồn,Quỳnh Lưu,Nghệ An) đánh nhau vài trận rồi chết ở trang Hương Ái.[30]
Cuối năm 967,Đinh Bộ Lĩnh dẫn quân lên vùng Tam Đái,Nguyễn Khoan chống không nổi, tử trận. Hai tướng và hai bà vợ của ông tự vẫn ở Ao Nâu, cạnh gò Đồng Đậu.
Sau khiĐinh Bộ Lĩnh tấn công thànhHồi Hồ, tướng quânKiều Thuận chống không nổi đành vượt sông Hồng chạy sang thành Mè kết hợp với Ma Xuân Trường chống lạiĐinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh đánh chiếm thành Mè, Kiều Thuận tử trận. Ma Xuân Trường chạy lên Yên Bái trốn thoát.[31][32]
Sứ quânLý Khuê ở Siêu Loại đánh nhau với lực lượng củaĐinh Bộ Lĩnh bị thua chạy và mất ở làng Dương Xá (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội).[33]
Đầu năm 968, sau khi chiếm lại vùng Bắc Ninh, vốn do các sứ quânNguyễn Thủ Tiệp và Lý Khuê cát cứ, Vạn Thắng VươngĐinh Bộ Lĩnh chuyển quân về Siêu Loại, choĐinh Liễn và Nguyễn Bặc đem ba ngàn quân tiến đánh quân Lã Đường.Lã Đường chủ trương tản quân, đóng giữ chỗ hiểm yếu. Khi quânHoa Lư đi đông thì tránh mà đi lẻ là chặn đánh, diệt một vài lính, rồi lại bỏ chạy.Nguyễn Bặc bày kế cho quân Hoa Lư tập trung, tập kích quân lương tiếp vận của quân Lã Đường. Trong vòng 7 ngày, vòng đai phòng thủ bên ngoài của quân Lã Đường bị tiêu diệt hoàn toàn, Đinh Liễn,Nguyễn Bặc đánh sâu vào trung tâm, bắt đượcLã Đường, chém chết, thu phục hoàn toàn đất Tế Giang.
Để thực hiện nhiệm vụ dẹp loạn và thống nhất đất nước,Đinh Bộ Lĩnh đã khôn khéo vận dụng kế sách chính trị kết hợp với quân sự. Khi lực lượng còn non yếu, ông đã liên kết với Sứ quânTrần Lãm ở Bố Hải Khẩu (khu vực phường Trần Lãm, tỉnh Hưng Yên ngày nay) rồi thu phục đượcPhạm Bạch Hổ ở Đằng Châu (Hưng Yên) về và phong làm Thân vệ Đại tướng quân.
Nhiều vịtướng nhà Đinh vốn là thổ hào địa phương, thực chất họ cũng có tiềm lực trở thành các sứ quân như:Võ Trung,Nguyễn Tấn, Phạm Đông Nga, Phạm Hán, Phạm Phổ, Phạm Hạp, Phạm Cự Lượng, Nguyễn Phúc Thời, Lê Lương, Lê Chương, Lê Du, Đinh Nga, Đào Ngọc Sâm, Cao Điền, Cao Đỗ, Bạch Tượng, Bạch Địa, Đào Lang, Lưu Quyền, Phạm Quảng, Lê Cát Bạo, Lý Mộc Trang, Đinh Hùng Lực, Nguyễn Ninh, Nguyễn Tĩnh,Trương Ma Ni, Lê Khai, Đặng Sỹ Nghị, Phùng Cường Bạo, Từ Hải cũng được Đinh Bộ Lĩnh thu phục và trở thành những công thần dẹp loạn.
Cuối cùng khi lực lượng đủ mạnh ông không tiêu diệt mà hàng phụcNgô Nhật Khánh ở Đường Lâm ,Ngô Xương Xí ở Bình Kiều vốn là những hậu duệ nhà Ngô để lấy lòng thiên hạ.
Các sứ quân chiếm đóng các vùng và lập căn cứ, xây thành lũy. Một vài thành lũy trong số đó còn tồn tại lâu dài về sau, thậm chí được sử dụng lại. Chẳng hạn như thành Đỗ Động củaĐỗ Cảnh Thạc tạiThanh Oai sau này được quân Minh sử dụng trong cuộc chiến chống phong tràokhởi nghĩa Lam Sơn vào cuối năm 1426.[34] Thành Tam Giang củaKiều Công Hãn sau đượcnhà Trần sử dụng làm căn cứ quân sự. Các tòa thành như thành Hồi Hồ, thành Bình Kiều hiện vẫn còn dấu tích.
Hiện nay, ở Ninh Bình, Phú Thọ, Thanh Hóa, Hà Nội... có rất nhiều di tích thờĐinh Tiên Hoàng, các tướng lĩnh và cả các sứ quân. Trong số các vị tướng thời Đinh có rất nhiều vị đến đây từ các vùng đất khác nhau. Những dấu tích cho thấy ở đây chính là vùng chịu sự ảnh hưởng và địa bàn gây dựng lực lượng của nhiều sứ quân hay các vị "hùng trưởng" khác nhưPhạm Bạch Hổ,Kiều Công Hãn,Lã Đường,Ngô Nhật Khánh,Nguyễn Khoan,Trần Lãm... dần dần trở thành nơi hội tụ và đối đầu quyết liệt của hào kiệt bốn phương.[35]
Trong danh sách thống kê có 283danh nhân thời Đinh trong đó quê hương các tướng phân bố như sau:Ninh Bình 87 tướng,Hà Nội 50 tướng,Hưng Yên 47 tướng,Hải Phòng 36 tướng,Thanh Hóa 22 tướng,Bắc Ninh 24 tướng,Phú Thọ 7 tướng,Trung Hoa 5 tướng,Nghệ An 4 tướng,Lạng Sơn 4 tướng,Cao Bằng 2 tướng,Hà Tĩnh 1 tướng.
Trong danh sách thống kê cácdi tích về thời Đinh, hiện có 600 di tích liên quan tới Vua Đinh và 283 danh nhân thời Đinh trong đóHà Nội: 112 di tích,Ninh Bình có 300 di tích,Hưng Yên 111 di tích,Hải Phòng 51 di tích,Bắc Ninh 30 di tích,Nghệ An 13 di tích,Thanh Hóa 10 di tích, Phú Thọ 20 di tích, Thái Nguyên 4 di tích. Các tỉnh khác cũng có di tích thời Đinh như Cao Bằng, Lạng Sơn, An Giang, Đà Nẵng, Đắk Lắk,Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tĩnh...
Nhiều di tích thờ các bộ tướng và sứ quân trở thành điểm đến nổi tiếng của các địa phương như: Di tích lịch sử cấp Quốc gia: Đìnhlàng Phú Khê ởHoằng Phú, tỉnhThanh Hóa; đình Bến ở Phụng Công vàđền Mây ở Sơn Nam,Hưng Yên;đền Trù Mật ởPhú Thọ; đền Gin và đền Xám ở Hồng Quang,Ninh Bình; đền Gia Loan ở Yên Lạc,Phú Thọ; đình Đông Phù ở Nam Phù, đình Yên Bình ở Gia Lâm,đình Cổ Hiền vàđền Tam Xã ở Quốc Oai,Hà Nội; đình Ném Đoài ở Hạp Lĩnh,Bắc Ninh; đình Bo ở phường Trần LãmHưng Yên, đền Khai Long ở Văn Hiến,Nghệ An...
Xét trên lợi ích quốc gia, việc cát cứ của các sứ quân đi ngược lại nguyện vọng thống nhất của dân tộc. Nhưng có thể thấy trong bối cảnh đất nước rơi vào tình trạng vô chủ, việc các vị hào trưởng có thế lực quân sự mạnh, thiết lập chính quyền, duy trì trật tự tại địa phương để nhân dân có thể sống yên bình trong vùng đất của họ là điều cần thiết và thuận lòng dân, dù việc này không có tính toàn cục và chỉ diễn ra trong một thời đoạn ngắn, điều đó lý giải vì sao các sứ quân vẫn được nhân dân trong vùng chiếm đóng lập đền thờ cho dù số đền thờ này là quá ít ỏi so với số lượng đền thờ các trung thầnnhà Đinh có công dẹp loạn. Sách "Việt Nam phong sử" bình rằng:
Chiến tranh kết thúc năm 968.Đinh Bộ Lĩnh lên ngôiHoàng đế,[36] lấy hiệuĐinh Tiên Hoàng, lập ra triều đạinhà Đinh, nướcĐại Cồ Việt. Thắng lợi củaĐinh Bộ Lĩnh là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập trong nhân dân.