Lục quân Hoa Kỳ là mộtquân chủng củaQuân đội Hoa Kỳ có trách nhiệm với các chiến dịch quân sự trên bộ. Đây là một trong những quân chủng lâu đời và lớn nhất về quân sự của Hoa Kỳ, và là một trong 8lực lượng đồng phục của Hoa Kỳ (uniformed services). Lục quân hiện đại có nguồn gốc từLục quân Lục địa được thành lập vào ngày 14 tháng 6 năm 1775,[1] trước khi Hoa Kỳ được khai sinh để đáp ứng nhu cầu choChiến tranh Cách mạng Mỹ.Quốc hội Liên hiệp (Congress of the Confederation) thành lập Lục quân Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 6 năm 1784 sau khi kết thúc chiến tranh để thay thế Lục quân Lục địa bị giải tán. Lục quân tự xem mình là hậu duệ của Lục quân Lục địa và vì thế coi ngày thành lập của mình chính là ngày thành lập của lực lượng Lục quân Lục địa.[1]
Nhiệm vụ chính của Lục quân Hoa Kỳ là "cung ứng các lực lượng và khả năng cần thiết... để hỗ trợ chiến lược phòng vệ và an ninh quốc gia."[2] Lục quân Hoa Kỳ được điều hành và chỉ huy bởiBộ Lục quân Hoa Kỳ, đây là một trong ba bộ quân sự trực thuộcBộ Quốc phòng Hoa Kỳ. Người lãnh đạo dân sự làBộ trưởng Lục quân Hoa Kỳ. Sĩ quan quân sự cao cấp nhất trong bộ làTham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ trừ khiTổng tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ hay Tổng tham mưu phó Liên quân Hoa Kỳ là sĩ quan lục quân. Lục quân hiện dịch hiện có 475.000 quân, Lục quân Vệ binh Quốc gia có 342.000 quân và Lục quân Trừ bị Hoa Kỳ có 198.000 quân. Tính chung tất cả thì tổng lực lượng lên đến 1.015.000 quân (năm tài khóa 2016).[3]
Lục quân Hoa Kỳ phục vụ với vai trò là binh chủng trên bộ của Quân đội Hoa Kỳ.Mục §3062 trong Điều 10 Bộ luật Hoa Kỳ đã định nghĩa mục đích của Lục quân như sau:[4]
Duy trì hòa bình và an ninh, cung ứng lực lượng bảo vệ Hoa Kỳ, các thịnh vượng chung, thuộc địa, và bất cứ vùng đất nào mà Hoa Kỳ chiếm giữ.
Hỗ trợ các chính sách của quốc gia.
Thực thi các mục tiêu của quốc gia.
Vượt lên chiến thắng bất cứ quốc gia nào có những hành động gây hấn mà đe dọa hòa bình và an ninh của Hoa Kỳ.
Lục quân Lục địa đượcQuốc hội Lục địa thành lập vào ngày 14 tháng 6 năm 1775 với vai trò là quân đội thống nhất củamười ba thuộc địa chống lạiVương quốc Anh. Khi đóGeorge Washington được bổ nhiệm làm tư lệnh của đội quân thống nhất này.[1] Lục quân ban đầu do các quân nhân phục vụ trong Lục quân Anh hay các dân quân thuộc địa. Những người này đã mang theo di sản quân đội Anh cùng với họ khi gia nhập Lục quân Lục địa. Khi Chiến tranh Cách mạng Mỹ đang tiến triển thì Lục quân Lục địa nhận được sự trợ giúp và tiếp liệu cũng như học thuyết củaPháp nên có phần ảnh hưởng đến lực lượng này. Sự trợ giúp của Phổ và các huấn luyện viên Phổ nhưFriedrich Wilhelm von Steuben cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với Lục quân Lục địa.
George Washington đã sử dụng chiến lược Fabian (tránh đối đầu trực tiếp, từng bước tiêu hao lực lượng địch), chiến thuật đánh và rút nhằm vào nơi yếu điểm nhất của địch để tiêu hao các lực lượng Anh và đồng minh đánh thuê của họ. Washington đã dẫn dắt lục quân chiến thắng chống lại người Anh tại các trậnTrenton vàPrinceton, và rồi quay trở về miền nam. Với chiến thắng có tính quyết định tạitrận bao vây Yorktown và sự giúp đỡ của người Pháp,Tây Ban Nha, vàHà Lan, Lục quân Lục địa toàn thắng trước người Anh. TheoHiệp định Paris (1783), nền độc lập của Hoa Kỳ được công nhận.
Sau chiến tranh, Lục quân Lục địa nhanh chóng bị giải tán vì người Mỹ không tin tưởng vào quân đội hiện có mà thay vào đó quân dân từ các tiểu bang trở thành lực lượng bộ binh duy nhất của quốc gia mới, trừ một trung đoàn được giữ lại để bảo vệ vùngLãnh thổ Tây Bắc và một đại đội pháp binh bảo vệ kho vũ khí ởWest Point. Tuy nhiên vì xung đột tiếp tục xảy ra giữa Hoa Kỳ và người bản thổ Mỹ nên Hoa Kỳ nhận thấy rằng một lục quân hiên dịch được huấn luyện là điều cần thiết. Đơn vị đầu tiên làLê Dương Hoa Kỳ, được thành lập vào năm 1791.
Chiến tranh năm 1812 là cuộc chiến thứ hai và cũng là cuối cùng của người Mỹ chống lại người Anh nhưng không thành công bằng Chiến tranh Cách mạng Mỹ trước kia. Một cuộc xâm nhập vàoCanada bị thất bại và quân đội Hoa Kỳ không thể ngăn cản được người Anh hỏa thiêu thủ đô mới của Hoa Kỳ vào lúc đó làWashington, D.C.. Tuy nhiên, Lục quân chính quy dưới quyền của các vị tướngWinfield Scott vàJacob Brown đã chứng tỏ được sự chuyên nghiệp của họ và có thể đánh bại quân đội Anh trongChiến dịch Niagara vào năm 1814. Hai tuần sau khi một hiệp ước được ký kết,Andrew Jackson đã đánh bại cuộc xâm nhậpNew Orleans của người Anh. Tuy nhiên cuộc chiến thắng này không có ảnh hưởng lớn vì hiệp ước đã bắt buộc hai bên trở về vị trí ban đầu của mình.
Giữa năm 1815 và 1860, tinh thần của cái gọi làVận mệnh hiển nhiên trở nên quen thuộc tại Hoa Kỳ và khi người định cư Mỹ di chuyển về phía tây thì Lục quân Hoa Kỳ lại phải đối phó với một loại các vụ tập kích và trận đánh để chống lại người bản thổ Mỹ trong khi những người thực dân Mỹ đã làm lật tung nơi ăn chốn ở của họ. Lục quân Hoa Kỳ cũng phải chiến đấu trongChiến tranh Mỹ-México (1846–1848). Đây là sự kiện mang tính định đoạt đối với cả hai quốc gia.[5] Sự chiến thắng của người Mỹ đã thu về cho Hoa Kỳ một vùng lãnh thổ rộng lớn mà sau này trở thành toàn bộ hay một phần của các tiểu bangCalifornia,Nevada,Utah,Colorado,Arizona,Wyoming vàNew Mexico.
Nội chiến Hoa Kỳ là cuộc chiến đắt giá nhất thời kỳ này. Sau khi đa số các tiểu bang miền nam ly khai và thành lậpliên minh miền Nam Hoa Kỳ, Lực lượng miền nam nổ súng tấn công lực lượng miền bắc và khởi sự cuộc nội chiến tạiĐồn Sumter ởCharleston, Nam Carolina. Trong khoảng thời gian hai năm đầu nội chiến, lực lượng miền nam thắng đậm Lục quân Hoa Kỳ nhưng sau các trận đánh có tính quyết định tạiGettysburg ở miền đông vàVicksburg ở miền tây cùng với sức mạnh siêu đẳng về quân số cũng như công nghệ quân đội liên bang đã thực hiện một chiến dịch thần sầu vượt qua lãnh thổ của phe miền nam và cuộc nội chiến kết thúc khi phe miền nam đầu hàng vào tháng 4 năm 1865. Theo con số điều tra dân số năm 1860, có đến 8% nam người Mỹ da trắng tuổi từ 13 đến 43 chết trong cuộc chiến này trong đó khoảng 6% ở miền bắc và 18% ở miền nam.[6]
Sau nội chiến, Lục quân Hoa Kỳ đánh một cuộc chiến kéo dài với người bản thổ Mỹ vì người bản thổ Mỹ chống lại việc người Mỹ mở rộng lãnh thổ vào bên trong giữa lục địa Bắc Mỹ. Vào thập niên 1890, Hoa Kỳ trở thành một nhân tố tầm cỡ quốc tế khi Hoa Kỳ thắng cuộc trongChiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha và thắng cuộc chiến gây tranh cãi và ít biết đến hơn làChiến tranh Mỹ-Philippines cũng như sự can thiệp của Hoa Kỳ vàochâu Mỹ Latin vàcuộc khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn.
Binh sĩ thuộc Sư đoàn Bộ binh 89 thuộc Lục quân Hoa Kỳ vượtsông Rhine bằng tàu, năm 1945.
Năm 1910, Quân đoàn Truyền tin Hoa Kỳ trực thuộc Lục quân Hoa Kỳ (U.S. Signal Corps) mua và sử dụng các phi cơ đầu tiên cho Lục quân Hoa Kỳ, đó là các phi cơ có cánh hai tầngWright Type A.[7] Hoa Kỳ tham chiến trongChiến tranh thế giới thứ nhất vào năm 1917 bên cạnhVương quốc Anh,Pháp, vàNga. Quân đội Hoa Kỳ được đưa đến mặt trận và tham gia vào cuộc tấn công mà cuối cùng đã phá vỡ được các phòng tuyến củaĐức. Khi hiệp ước đình chiến được ký kết ngày 11 tháng 11 năm 1918 thì Lục quân Hoa Kỳ một lần nữa bị cắt giảm lực lượng.
Hoa Kỳ tham chiến trongChiến tranh thế giới thứ hai sau khiĐế quốc Nhật Bảntấn công Trân Châu Cảng. Tạichiến trường châu Âu, các lực lượng thuộc Lục quân Hoa Kỳ đã hình thành nên một bộ phận nổi bật của các lực lượng chiếmBắc Phi vàSicilia. Vào ngày mà ngày nay gọi làD-Day và sau đó là giải phóng châu Âu và đánh bạiPhát xít Đức thì đã có đến hàng triệu binh sĩ Lục quân Hoa Kỳ đóng vai trò trung tâm của lực lượng đồng minh. Tạimặt trận Thái Bình Dương, các binh sĩ Lục quân Hoa Kỳ đã cùng vớiThủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tham gia vào chiến dịch tấn công chớp nhoáng vào các hải đảo để giành lấy từng đảo này từ tay củaĐế quốc Nhật Bản. Sau khi phe trục đầu hàng vào tháng 5 (Đức) và tháng 8 (Nhật) năm 1945, binh sĩ Lục quân Hoa Kỳ được triển khai để chiếm đóng hai quốc gia bại trận là Nhật và Đức. Hai năm sauChiến tranh thế giới thứ hai,Không lực Lục quân Hoa Kỳ được tách ra khỏi Lục quân Hoa Kỳ và trở thànhKhông lực Hoa Kỳ vào ngày 18 tháng 9 năm 1947 sau nhiều thập niên tìm cách tách ra khỏi lục quân. Vào năm 1948, Lục quân Hoa Kỳ cũng chấm dứt việc tách ly chủng tộc trong quân đội.
Tuy nhiên, cuốiChiến tranh thế giới thứ hai cũng là thời điểm sinh ra sự đối đầu giữa Đông và Tây mà được biết đến với tên gọiChiến tranh lạnh. Với sự kiện nổ raChiến tranh Triều Tiên, mối quan tâm đến sự phòng thủTây Âu phát sinh. Hai quân đoàn, V và VII, được tái phối trí hoạt động dưới quyền của Lục quân 7 Hoa Kỳ vào năm 1950. Lực lượng của Hoa Kỳ tại châu Âu gia tăng từ một sư đoàn lên đến bốn sư đoàn. Hàng trăm ngàn binh sĩ đóng quân Tây Đức cùng với một số khác ởBỉ,Hà Lan,Vương quốc Anh cho đến thập niên 1990 nhằm ngăn chăn một cuộc tấn công có thể có củaLiên Xô.
Binh sĩ thuộc Sư đoàn Bộ binh số 2 đang chốt giữ một khẩu súng máy trongChiến tranh Triều Tiên
Trong Chiến tranh lạnh, các binh sĩ Mỹ và đồng minh đã chiến đấu chống các lực lượngcộng sản tại Triều Tiên vàViệt Nam (xemThuyết Domino). Chiến tranh Triều Tiên xảy ra vào năm 1950 khi Liên Xô rời bỏ phòng họp củaHội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và vì thế đã bỏ mất quyền phủ quyết có thể có của họ. Dưới cây dù củaLiên Hợp Quốc, hàng trăm ngàn binh sĩ của Hoa Kỳ đã tham chiến để ngăn cảnBắc Triều Tiên chiếmNam Triều Tiên và rồi sau đó xâm nhập vào lãnh thổ miền bắc. Sau nhiều lần tiến thoái của cả hai bên và Trung Quốc nhảy vào vòng chiến thì một cuộc ngưng bắn được tuyên bố, kêu gọi hai bên rút về vị trí mà đã được tạo ra vào năm 1953.
Một toán bộ binh Hoa Kỳ đang tấn công một vị trí ởĐăk Tô trong Chiến dịch Hawthorne,Chiến tranh Việt Nam
Chiến tranh Việt Nam thường được xem như một điểm thấp trong hồ sơ lịch sử của Lục quân Hoa Kỳ vì việc sử dụng các binh sĩ bị bắt buộc thi hành quân dịch, thiếu sự ủng hộ chiến tranh của dân chúng Mỹ và những hạn chế gây bức xúc bị áp đặt cho Lục quân Hoa Kỳ từ các nhà lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ (thí dụ như không có cuộc xâm nhập nào của bộ binh được tiến hành vào lãnh thổ của Bắc Việt). Trong lúc các lực lượng Mỹ đóng quân tạiViệt Nam Cộng hòa từ năm 1959 với vai trò tình báo, huấn luyện và cố vấn thì họ vẫn chưa triển khai quân với số lượng lớn mãi cho đến năm 1965, sausự kiện Vịnh Bắc Bộ. Các lực lượng Mỹ thiết lập và kiểm soát hữu hiệu chiến trường "truyền thống" nhưng họ lại phải đối phó với các chiến thuật đánh và rút củaQuân Giải phóng miền Nam Việt Nam vàQuân đội Nhân dân Việt Nam. Về cấp chiến thuật, các binh sĩ Mỹ không thua một trận chiến tầm cỡ nào.[8] Thí dụ trong trận công kích Tết Mậu Thân năm 1968, Lục quân Hoa Kỳ đã chuyển được tình thế từ bị tấn công thành phản công gây thiệt hại nặng cho các lực lượng Cộng sản tại miền Nam Việt Nam. Chính do kết quả này mà sau đó, đa số các trận đánh lớn khác của Lục quân Hoa Kỳ chỉ xảy ra với lực lượng quân đội chính quy của miền Bắc được bổ sung vào với danh nghĩa Quân giải phóng miền Nam. Tuy nhiên, cuối cùng, sự phản chiến của giới chính trị trong nước buộc Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam vào năm 1973. Năm 1975, Việt Nam thống nhất dưới một chính phủ cộng sản.
Năm 1967, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa KỳRobert McNamara quyết định rằng 15 sư đoàn của Lực lượng Vệ Binh Quốc gia là không cần thiết và cắt giảm 8 sư đoàn bao gồm 1 sư đoàn Bộ Binh Cơ Giới, 2 sư đoàn Thiết Giáp và 5 sư đoàn Bộ Binh nhưng tăng số lượng lữ đoàn từ 7 lên 18 gồm 1 lữ đoàn Nhảy Dù, 1 lữ đoàn Thiết Giáp, 2 lữ đoàn Bộ Binh Cơ Giới và 14 lữ đoàn Bộ Binh.
Chính sách tổng lực lượng được Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ làĐại tướngCreighton Abrams đưa ra sauChiến tranh Việt Nam là coi ba thành phần của Lục quân Hoa Kỳ – Lục quân Chính quy, Lục quân Vệ binh Quốc gia và Lục quân Trừ bị là một lực lượng đơn độc.[9] Vì tin rằng không có một vịTổng thống Hoa Kỳ nào có thể đưa Hoa Kỳ (và đặc biệt hơn là Lục quân Hoa Kỳ) vào chiến tranh mà không có sự ủng hộ của dân chúng Mỹ nên đại tướng Abrams kết hợp cơ cấu tổ chức ba thành phần của Lục quân Hoa Kỳ theo cái cách khiến cho các hoạt động quân sự kéo dài không thể nào thực hiện được mà không có sự tham gia của cả Lục quân Vệ binh Quốc gia và Lục quân Trừ bị.
Thập niên 1980 là một thập niên tái tổ chức của Lục quân. Lục quân đã biến đổi lực lượng thành lực lượng toàn binh sĩ tình nguyện phục vụ với điểm nhấn là huấn luyện và sử dụng kỹ thuật. Đạo luật Goldwater-Nichols năm 1986 tạo nên các Bộ tư lệnh Chiến đấu Thống nhất (unified combatant command), đưa Lục quân Hoa Kỳ cùng với bốn quân chủng khác nằm dưới các cơ cấu chỉ huy theo vị trí địa lý và thống nhất. Lục quân cũng đóng một vai trò trong cuộc xâm nhậpGrenada năm 1983 (Chiến dịch Urgent Fury) vàPanama năm 1989 (Chiến dịch Just Cause).
Năm 1989 nước Đức thống nhất và Chiến tranh lạnh kết thúc. Các nhà lãnh đạo lục quân thực hiện một kế hoạch cắt giảm quân số. Đến tháng 11 năm 1989 các nhà phác thảo quân sự củaNgũ Giác Đài trình lên một kế hoạch nhằm cắt giảm 23% lực lượng thuộc Lục quân Hoa Kỳ từ 750.000 xuống còn 580.000.[10] Một số sáng kiến giảm quân số được đưa ra như việc cho hồi hưu sớm được sử dụng. Năm 1990 khiIraq xâm lược quốc gia nhỏ bé lân cận làKuwait, các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ do Sư đoàn Dù 82 lãnh đạo, nhanh chóng triển khai binh sĩ nhằm bảo vệẢ Rập Xê Út. Tháng 1 năm 1991Chiến dịch Bảo Sa mạc bắt đầu, lực lượng liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo khai triển trên 500.000 binh sĩ, đa số từ các lực lượng thuộc Lục quân Hoa Kỳ cho đến khi Iraq bị đánh bật khỏi lãnh thổ Kuwait. Chiến dịch kết thúc bằng sự toàn thắng đối với Lục quân khi các lực lượng liên quân phương Tây đánh bật Quân đội Iraq trong chỉ một trăm giờ.
Sau Chiến dịch Bão Táp Sa mạc, Lục quân Hoa Kỳ không gặp một chiến dịch quân sự lớn nào cho hết thập niên 1990. Các đơn vị của lục quân tham gia vào một số hoạt động gìn giữ hòa bình như ởSomalia năm 1993, nơi đã diễn raChiến dịch Gothic Serpent truy quét các chỉ huy cấp cao của quân nổi dậy Somali đang chiếm giữ thủ đô Mogadishu đã khiến cho 18 lính Biệt Động Quân, đặc nhiệm Delta và Trung đoàn 160 Không Vận Đặc Biệt tử trận cùng với hơn 100 lính đặc nhiệm khác bị thương, sau đó các lực lượng quốc tế rút bỏ khỏi quốc gia này. Lục quân cũng góp binh sĩ vào lực lượng gìn giữ hòa bình tạiNam Tư vào cuối thập niên 90.
Lục quân Hoa Kỳ tham gia vào cuộc xâm chiếm phối hợp giữa Hoa Kỳ và đồng minh vàoIraq năm 2003. Những năm theo sau đó, sứ mệnh của cuộc xâm chiếm này thay đổi từ xung đột vũ trang giữa các quân đội chính quy sang chống chiến tranh du kích. Có một con số lớn các vụ tấn công tự sát đã khiến cho Hoa Kỳ tổn thất hơn 4.000 binh sĩ (tính đến tháng 3 năm 2008) và làm bị thương hàng ngàn binh sĩ khác.[11] Vì bất ổn tại Iraq nên Hoa Kỳ đã phải khai triển dài hạn lực lượng Lục quân chính quy cũng như các lực lượng vệ binh quốc gia và trừ bị.
Kế hoạch hiện đại hóa chính của Lục quân Hoa Kỳ là chương trình FCS (future combat systems có nghĩa là Hệ thống chiến đấu tương lai). Nhiều hệ thống đã bị hủy bỏ và phần còn lại được đưa vào chương trình hiện đại hóa BCT (brigade combat team có nghĩa là Đội ngũ chiến đấu lữ đoàn).
Công việc tổ chức Lục quân Hoa Kỳ đã được bắt đầu vào năm 1775.[12] Trong thờiChiến tranh thế giới thứ nhất, "Lục quân Quốc gia" được tổ chức để tham chiến cuộc xung đột này.[13] Nó bị giải thể vào cuối Chiến tranh thế giới thứ nhất và được thay thế bởi Lục quân chính quy, các quân đoàn trừ bị có tổ chức, và dân quân tiểu bang. Trong thập niên 1920 và 1930, các quân nhân theo "binh nghiệp" được gọi là "Lục quân chính quy" và các quân đoàn sĩ quan trừ bị và quân đoàn binh sĩ trừ bị sẽ được thay thế vào các vị trí trống khi cần thiết.[14]
Năm 1941, "Lục quân của Hoa Kỳ" (Army of the United States) là bộ phận binh sĩ thi hành quân dịch trực thuộc Lục quân Hoa Kỳ được thành lập để tham chiến trongChiến tranh thế giới thứ hai. Lục quân chính quy, Lục quân của Hoa Kỳ, Vệ binh Quốc gia và các quân đoàn sĩ quan/binh sĩ trừ bị cùng tồn tại. SauChiến tranh thế giới thứ hai, các quân đoàn sĩ quan và binh sĩ trừ bị được kết hợp lại thành Lục quân Trừ bị Hoa Kỳ. Lục quân của Hoa Kỳ được tái thành lập choChiến tranh Triều Tiên vàChiến tranh Việt Nam và rồi bị giải thể ngay khi việc tuyển mộ quân dịch bị đình chỉ.[14]
Hiện tại, Lục quân Hoa Kỳ được chia thành Lục quân Chính quy, Lục quân Trừ bị, và Lục quân Vệ binh Quốc gia.[13] Lục quân cũng được chia thành cách phân binh chủng chính như pháo phòng không, bộ binh, không lực, thông tin (signal corps), công binh, và cơ giới. Trước năm 1903, các binh sĩ thuộc Vệ binh Quốc gia được coi là binh sĩ thuộc các tiểu bang trừ khi được Tổng thống Hoa Kỳ liên bang hóa. Từ khi Đạo luật Dân quân 1903 ra đời, tất cả các binh sĩ thuộc Vệ binh Quốc gia là thuộc cả tiểu bang mà họ đóng quân và thuộc liên bang Hoa Kỳ: các binh sĩ vệ binh này nằm dưới quyền của thống đốc tiểu bang của họ và cũng là lực lượng trừ bị của Lục quân Hoa Kỳ dưới quyền của Tổng thống Hoa Kỳ.
Từ khi áp dụng chính sách tổng lực lượng theo sau kết cục củaChiến tranh Việt Nam, các binh sĩ thuộc thành phần trừ bị đóng một vai trò hoạt động hơn trong các chiến dịch quân sự của Hoa Kỳ. Các đơn vị Vệ binh Quốc gia và lực lượng trừ bị đã tham gia trongChiến tranh Vùng Vịnh, giữ hòa bình tạiKosovo, và cuộc xâm chiếm Iraq vào năm 2003.
Vô số lực lượng phòng vệ tiểu bang cũng tồn tại, đôi khi được gọi là dân quân tiểu bang do các chính quyền tiểu bang riêng biệt bảo trợ và phục vụ như là một đoàn quân thay thế cho Vệ binh quốc gia. Trừ khi trong thời gian quá nguy cấp cho quốc gia, thí dụ như Hoa Kỳ bị xâm chiếm, nếu không thì các lực lượng dân quân được hoạt động độc lập với Lục quân Hoa Kỳ và được xem là các lực lượng của chính quyền tiểu bang hơn là một thành phần quân sự quốc gia.
Mặc dù Lục quân ngày nay gồm toàn lực lượng tình nguyện, được gia tăng quân số khi cần từ các lực lượng Lục quân Trừ bị và Lục quân Vệ binh Quốc gia nhưng chính sách quân dịch vẫn còn tồn tại trong trường hợp có tai họa, thí dụ như Hoa Kỳ bị tấn công trong phạm vi lớn hay chiến tranh thế giới bùng nổ.
Giai đoạn cuối cùng của việc tổng động viên được biết đến với tên gọi "tái hoạt động các quân dân chưa được tổ chức" sẽ đặt toàn thể nam giới trong hạn tuổi phục vụ gia nhập Lục quân Hoa Kỳ. Lần cuối cùng xảy ra sự việc như thế là trong thờiNội chiến Hoa Kỳ khiliên minh miền Nam Hoa Kỳ kêu gọi nhập ngũ vào năm 1865, bắt buộc tất cả nam giới không phân biệt tuổi tác hay sức khỏe vào quân đội miền Nam.
Các bộ tư lệnh Lục quân và bộ tư lệnh thành phần của Lục quân
Lục quân Hoa Kỳ gồm có ba thành phần: chính quy; 2 thành phần trừ bị là Lục quân Vệ binh Quốc gia và Lục quân Trừ bị. Cả hai thành phần trừ bị gồm có các binh sĩ bán thời gian, tham dự huấn luyện chỉ một lần trong tháng và tham dự một khóa huấn luyện thường niên dài từ hai đến ba tuần mỗi năm. Trong khi Lục quân Vệ binh Quốc gia được tổ chức, huấn luyện và trang bị như một thành phần của Lục quân Hoa Kỳ, khi nó không phục vụ cho liên bang thì mỗi đơn vị riêng của nó nằm dưới quyền của các thống đốc lãnh thổ và tiểu bang riêng biệt hay thị trưởngĐặc khu Columbia. Tuy nhiên Vệ binh Quốc gia Hoa Kỳ có thể bị liên bang hóa bằng sắc lệnh củaTổng thống Hoa Kỳ cho dù thống đốc tiểu bang có đồng ý hay không.[20]
Phù hiệu cầu vai Lục quân Hoa Kỳ cấp đại đội
Lục quân Hoa Kỳ do Bộ trưởng Lục quân thuộc giới dân sự lãnh đạo. Bộ trưởng này trực tiếp báo cáo vớiBộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ và phục vụ với vai trò giám sát về mặt dân sự choTham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ. Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ là một thành viên củaBộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ, đây là một bộ phận chung gồm các tham mưu trưởng của các quân chủng có nhiệm vụ cố vấn choTổng thống Hoa Kỳ và Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ trong các vấn đề về quân sự dưới sự chỉ đạo của Tổng tham mưu trưởng và Tổng tham mưu phó Liên quân Hoa Kỳ.
Năm 1986,Đạo luật Goldwater-Nichols đặt ra thứ tự lãnh đạo theo hệ thống dây chuyền từ Tổng thống Hoa Kỳ đến Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ rồi trực tiếp đến các tư lệnh của các Bộ tư lệnh Tiền phương Thống nhất (Unified Combatant Command). Những vị tư lệnh này nắm giữ tất cả các đơn vị vũ trang thuộc mọi quân chủng trong vùng địa lý trách nhiệm của họ. Vì thế mỗi tham mưu trưởng của các quân chủng chỉ có trách nhiệm tổ chức, huấn luyện và trang bị cho quân chủng của mình. Các quân chủng này sẽ cung ứng lực lượng đã được huấn luyện cho các tư lệnh chiến trường sử dụng.
Cho đến năm 2013, Lục quân Hoa Kỳ sẽ thực hiện xong việc chuyển đổi sang sáu bộ tư lệnh vùng địa lý để hợp với sáu Bộ tư lệnh Tiền phương Thống nhất của Hoa Kỳ (mỗi Bộ tư lệnh Tiền phương Thống nhất gồm có tất cả các quân chủng):
Lục quân đang thay đổi cấp đơn vị cơ bản từsư đoàn sanglữ đoàn. Cấp Sư đoàn vẫn sẽ được giữ nhưng Bộ Tư lệnh của các Sư đoàn có quyền điều khiển bất kì Lữ đoàn nào chứ không chỉ Lữ đoàn dưới quyền điều động của mình. Phần chính của việc hiện đại hóa này là các Lữ đoàn sẽ được tổ chức giống nhau và bất kì Lữ đoàn nào cũng có thể được điều động bởi bất kì Sư đoàn nào. Sẽ có ba loại Lữ đoàn chiến đấu mặt đất chính như sau:
Lữ đoànHạng nặng: Thiết Giáp có 4.700 binh sĩ bao gồm 90 xe tăng M1 Abrams, 90 xe thiết giáp M2 Bradley (BFV), 120 thiết quân vận M-113 (APC) và HMMWVs.
Lữ đoànHạng trung: Stryker (sử dụng loại xe cơ giới 8 bánh thuộc dòng xe Stryker) có 4.500 binh sĩ gồm 300 xe thiết giáp Stryker các loại, 1 lữ đoàn Stryker có khả năng triển khai bất kì nơi nào trên thế giới trong vòng 24h và trong vòng 96h triển khai hoàn chỉnh 1 sư đoàn Thiết giáp Stryker.
Lữ đoànHạng nhẹ: Bộ Binh, Nhảy Dù có 4.400 binh sĩ, các lữ đoàn nhẹ này có khả năng triển khai đến bất kì đâu trên thế giới trong vòng 18h.
Ngoài ra cũng sẽ có các lữ đoàn hỗ trợ phục vụ và hỗ trợ chiến đấu. Các lữ đoàn hỗ trợ chiến đấu gồm có các lữ đoànkhông vận gồm có các phi cơ hạng nặng và nhẹ các loại, các lữ đoànpháo binh, và các lữ đoànhậu cần.
Binh sĩ Lục quân Hoa Kỳ tham gia tuần tra trên một cánh đồng ở Afghanistan
Lục quân Hoa Kỳ gồm có 10 sư đoàn hiện dịch cũng như có một số đơn vị độc lập. Lực lượng đang trong tình trạng phát triển với bốn lữ đoàn nữa theo kế hoạch đã được thành lập vào năm 2013 với quân số sẽ tăng thêm 74.200 binh sĩ tính từ tháng 1 năm 2007. Mỗi sư đoàn sẽ có bốn lữ đoàn tác chiến bộ binh, sẽ có ít nhất một lữ đoàn không vận cũng như một lữ đoàn pháo binh và một lữ đoàn hậu cần.
Trong Lục quân Vệ binh Quốc gia và Lục quân Trừ bị có thêm 8 sư đoàn với 15 lữ đoàn hỗn hợp, gồm các lữ đoàn hỗ trợ chiến đấu và hỗ trợ phục vụ chiến đấu, và các lữ đoàn kỵ binh, bộ binh, pháo binh, không lực, công binh, hỗ trợ độc lập.
Vào năm 2015, Lục quân chính quy đã được cắt giảm xuống còn 32 lữ đoàn chiến đấu với 490.000 quân. Tướng Raymond Odierno cho biết vào năm 2018, Lục quân sẽ có quân số gồm 450.000 quân chính quy, 335.000 quân thuộc Vệ Binh Quốc gia và 195.000 quân thuộc Lục quân trừ bị.
Các đơn vị gồm lữ đoàn thiết giáp 1, lữ đoàn bộ binh 2, lữ đoàn bộ binh 48 (vệ binh quốc gia), lữ đoàn pháo binh sư đoàn 3, lữ đoàn hậu cần. Từ 10-2017, lữ đoàn bộ binh 2 được đổi lại thành lữ đoàn thiết giáp.
Có nhiều cách để trở thành một sĩ quan trong đó phải kể đến là các trường đào tạo sĩ quan trừ bị,Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point hayHọc viện Hàng hải Thương mại Hoa Kỳ ở Kings Point, và Trường Ứng viên Sĩ quan. Một số các chuyên gia, bác sĩ, y tá, luật sư, và giáo sĩ tuyên úy cũng được nhận thẳng vào Lục quân. Nhưng cho dù chọn đường đi nào thì các sĩ quan của Lục quân Hoa Kỳ cũng đeo các quân hàm giống nhau.
Các chuẩn úy là các sĩ quan đeo quân hàm một vạch đơn. Các sĩ quan này chuyên nghiệp trong một lĩnh vực nào đó, đầu tiên là do Bộ trưởng Lục quân bổ nhiệm với cấp bậc chuẩn úy bậc 1 (CW1) nhưng khi nhận nhiệm vụ sẽ được thăng lên bậc chuẩn úy bậc 2 (CW2).
Thực tế thì các sĩ quan cấp chuẩn úy được gọi là "Mr. (tên nam)" hay "Ms. (tên nữ)." Tuy nhiên nhiều nhân sự không dùng các thuật từ này mà gọi bằng "Sir", "Ma'am", hay thông dụng nhất gọi là "Chief".
Các cấp bậc "Sergeant" có thể là "trung sĩ" hoặc "thượng sĩ" là nhóm thuộc hạ sĩ quan. Cấp bậc "Corporal" là hạ sĩ và được xem là cấp bậc căn bản của nhóm hạ sĩ quan. Tuy cấp bậc "Specialist" có cùng bậc lương với "Corporal" nhưng không có trách nhiệm về lãnh đạo.
”
Bậc lương của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ
E-1
E-2
E-3
E-4
E-5
E-6
E-7
E-8
E-9
Quân hàm
Không quân hàm
Cấp bậc
Binh nhì
Binh nhì
Binh nhất
Hạ sĩ nghiệp vụ
Hạ sĩ
Trung sĩ
Trung sĩ tham mưu
Trung sĩ nhất
Thượng sĩ
Thượng sĩ nhất
Thượng sĩ Cố vấn
Thượng sĩ Cố vấn Chỉ huy trưởng
Thượng sĩ Cố vấn Lục quân
Tiếng Anh
Private
Private
Private First Class
Specialist
Corporal
Sergeant
Staff Sergeant
Sergeant First Class
Master Sergeant
First Sergeant
Sergeant Major
Command Sergeant Major
Sergeant Major of the Army
Viết tắt tiếng Anh
PVT ¹
PV2 ¹
PFC
SPC ²
CPL
SGT
SSG
SFC
MSG
1SG
SGM
CSM
SMA
Chuẩn bậc NATO
OR-1
OR-2
OR-3
OR-4
OR-4
OR-5
OR-6
OR-7
OR-8
OR-8
OR-9
OR-9
OR-9
¹PVT cũng được dùng để viết tắt cho các cấp bậc binh khi bậc lương không được phân biệt ²SP4 đôi khi bị bắt gặp ở chỗ của SPC để chỉ cấp bậc Specialist. Đây là một chỉ số được dùng khi có thêm các cấp bậc phụ Specialist nằm ở bậc lương cao hơn.
Lục quân khai triển nhiều loại vũ khí cá nhân khác nhau cho mục đích tạo hỏa lực nhẹ ở tầm ngắn.
Vũ khí phổ biến nhất mà Lục quân Hoa Kỳ sử dụng là súng trườngM4A1 carbine[23] phiên bản nâng cấp của M16A4[24]. Súng trường M4 đã thay thế hoàn toàn loại súng M16 trong Lục quân Hoa Kỳ.[25]. Biệt kích Hoa Kỳ sẽ được trang bị với loại súng trườngSCAR-H, trong khi các lực lượng đặc biệt sẽ được trang bị súng trườngHK416. Loại súng lục đeo bên mình và phổ biến nhất trong Lục quân Hoa Kỳ là súng lụcM9 9 mm[26] cùng với súng lụcM11. Cả hai loại súng này sẽ được thay thế bằng súng lụcM17 trong chương trình hiện đại hóa súng lục của Quân đội Hoa Kỳ. Lục quân Hoa Kỳ sử dụng nhiều loại lựu đạn khác nhau như lựu đạn nổ M67, lựu đạn khói M18 và lựu đạn choáng M84
Nhiều loại vũ khí đặc biệt khác nhau được cung cấp để tăng cường hỏa lực cho cấp tiểu đội gồm có súng máy nhẹM249,[27] súng máyMK48 là loại súng máy chuẩn hạng nhẹ của Lục quân trang bị cho các lực lượng đặc biệt, súng phóng lựuM320 vàM203 cũng được cung cấp. Súng shotgunBenelli M4 Super 90,M26 Mass hayMossberg 590 dùng để bật tung cửa khóa và cận chiến. Đối với vũ khí bắn tỉa Lục quân Hoa Kỳ sử dụng súng trườngM14, súng trường bắn tỉa tầm xaM2010, súng trường bắn tỉa bán tự độngM110 hay súng trường bắn tỉa hạng nặng có khả năng phá vật cảnBarrett M82, các lực lượng đặc biệt được trang bị súng bắn tỉaFN SCAR
Lục quân cũng triển khai nhiều loại vũ khí tập thể để tăng cường hỏa lực ở ngoài tầm vũ khí cá nhân.
Súng máy M240 là loại chuẩn tầm trung của Lục quân.[28]. Súng máy hạng nặng M2 được dùng như súng máy chống cá nhân và chống phá vật cản. Súng máy M2 cũng thường là vũ khí chính trên các loại xe tác chiến bộ binhStryker và là hệ thống vũ khí thứ hai trên xe tăngM1 Abrams. Súng máy phóng lựu MK 19 được sử dụng chính yếu trong các đơn vị cơ giới.[29] Loại này được sử dụng phổ biến trong vai trò bổ sung đối với súng máy hạng nặng M2.
Lục quân sử dụng ba loạisúng cối để hỗ trợ hỏa lực gián tiếp khi pháo binh nặng bắn không chính xác hay chưa sẵn có. Loại nhỏ nhất trong số súng cối là loạisúng cối M224 60 mm, thường được giao cho các đơn vị cấp đại đội bộ binh.[30] Ở cấp bậc đơn vị kế tiếp là cấptiểu đoàn thì dùngsúng cối M252 81 mm.[31] Loại súng cối lớn nhất của Lục quân làsúng cối M120 120 mm hay M121, thường được các tiểu đoàn cơ giới, các đơn vị xe Stryker, và các binh sĩ kỵ binh sử dụng bởi vì chúng cồng kềnh và nặng nề nên cần phải chuyển vận bằng vận xa hay kéo đằng sau xe.[32]
Lục quân Hoa Kỳ cũng dử dụng nhiều loại tên lửa vác vai khác nhau để hỗ trợ bộ binh trong khả năng tấn công và phòng thủ chống cơ giới. Vũ khí tấn công đa mục đích được bắn từ trên vaiAT4,M141 vàM72 LAW là những loại tên lửa không điều khiển có thể tiêu diệt các công trình phòng vệ cố định hay cơ giới ở tầm xa.M3 MAAWS là súng chống tăng không giật.BGM-71 TOW là loại tên lửa chống tăng hạng nặng có điều khiển. Tên lửaFGM-148 Javelin là loại tên lửa "bắn rồi không phải điều khiển nữa" (fire-and-forget) có thể chọn đánh từ trên xuống để tránh phần bọc thép dày phía trước; Javelin và TOW là các loại tên lửa hạng nặng, có khả năng xuyên phá cơ giới ở tầm xa 2.000 mét
Học thuyết quân sự của Lục quân Hoa Kỳ đặt nặng lên chiến tranh cơ giới. Lục quân Hoa Kỳ đạt tỷ lệ "lính-cơ giới" cao nhất thế giới vào năm 2009. Lục quân Hoa Kỳ đã sử dụng một phần đáng kể ngân sách để quân sự của mình để duy trì một số lượng xe và phi cơ đủ các chủng loại.
Loại xe phổ biến nhất của Lục quân làHumvee, có khả năng phục vụ đa nhiệm vụ với các vai trò như chở binh sĩ, tiếp liệu, nơi đặt vũ khí, tải thương và còn nhiều vai trò khác nữa.[35], xeHumvee đang được thay thế dần bằng loại xeOshkosh L-ATV từ năm 2015. Mặc dù lục quân sử dụng nhiều loại xe hỗ trợ tác chiến khác nhau nhưng loại phổ biến nhất là nhóm xe chiến thuật cơ động mở rộng hạng nặngHEMTT.M1A2 Abrams là loại xe tăng tác chiến chính của lục quân,[36] trong khi đóM2A3 Bradley là xe chiến đấu bộ binh chuẩn của lục quân.[37] Các loại xe quân sự khác gồm có xe tác chiến kỵ binh M3A3 thuộc dòng xe chiến đấu Bradley, dòng xeStryker,[38] và thiết vận xa bộ binhM113,[39] và nhiều loại xe bộ binh bọc thép có thể chống được mìn bẫy.
Vũ khí pháo binh của Lục quân Hoa Kỳ khá đa dạng.AN/TWQ-1 Avenger,MIM 104 Patriot vàTHAAD là 3 hệ thống tên lửa phòng không. Pháo mặt đất gồm lựu pháoM777,M119, pháo tự hànhM109A6 Paladin[40], hệ thống pháo phóng loạt cơ động caoM142 HIMARS và hệ thống phóng nhiều tên lửaM270,[41] được đặt trên bệ phóng có thể di chuyển bằng dây xích hay được triển khai cho các đơn vị cơ giới nặng.
Mặc dù Lục quân Hoa Kỳ sử dụng một số ít phi cơ có cánh cố định nhưng lại sử dụng nhiều loại máy bay trực thăng. Trong số các loại cánh quạt là trực thăng tấn côngAH-64 Apache, trực thăng tấn công hạng nhẹ/trinh sát vũ trangOH-58 Kiowa,[42] trực thăng vận tải tiện ích chiến thuậtUH-60 Black Hawk và trực thăng vận tải hạng nặngCH-47 Chinook.[43]. Theo kế hoạch giảm từ 7 xuống còn bốn loại máy bay trực thăng
Đối vớiUAV. Lục quân Hoa Kỳ triển khai các máy bay không người láiMQ-1C Gray Eagle
Hai binh sĩ mặc quân phục, người bên trái đội mũ kết và bên phải đội mũ rộng vành.
Quân phục tác chiến của Lục quân Hoa Kỳ có hình thể màu sắc ngụy trang, được thiết kế để sử dụng hợp với những môi trường đô thị, sa mạc, rừng. Các binh sĩ đang tác chiến tạiAfghanistan sẽ sớm được phát loại quân phục tác chiến có khả năng chống lửa và hình thể có nhiều màu sắc.[44]
Quân phục chuẩn dùng cho khi đóng quân thường được biết đến là màu xanh lá lục quân (army green) và đã được tất cả các sĩ quan và binh sĩ mặc kể từ khi nó được sử dụng vào năm 1956 khi nó thay thế quân phục khaki màuolive. Quân phục màu xanh nước biển lục quân có lịch sử ngược về giữa thế kỷ XIX, hiện nay là quân phục nghi thức của Lục quân Hoa Kỳ, nhưng nó sẽ thay thế quân phục màu trắng và màu xanh lá và sẽ trở thành quân phục thường ngày mới của Lục quân (dùng trong công việc văn phòng hay ở chốn công cộng). Mũ nồi (beret) sẽ tiếp tục được sử dụng cùng với quân phục tác chiến lục quân mớ khi làm nhiệm vụ ở nơi đóng quân và quân phục thường ngày được dùng khi thực hiện các nhiệm vụ không phải là nghi thức.
Áo giáp cá nhân trong đa số các đơn vị là loại áo chắn ở ngực có cải tiến (improved outer tactical vest) và nón sắt tác chiến MICH TC-2000.
Lục quân Hoa Kỳ phụ thuộc nhiều vào lều để cung cấp nhiều cơ sở vật chất mà họ cần khi triển khai lực lượng tại một vùng nào đó.Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ có nhiều luật lệ gắt gao về chất lượng và đặc tính của lều. Đa số lều được dùng nhất là loại lều dựng làm nơi nghỉ ngơi tạm cho binh sĩ, khu nhà ăn, các căn cứ tiền phương, trung tâm hành quân chiến thuật, các khu giải trí, phúc lợi, tinh thần, các điểm gác...
^"Commanding General". United States Army, Pacific. ngày 23 tháng 4 năm 2008.Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2008.
^"Commanding General". United States Army, Surface Deployment and Distribution Command. ngày 30 tháng 6 năm 2008.Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2008.