Lê Văn Dũng | |
|---|---|
Chức vụ | |
| Nhiệm kỳ | 21 tháng 4 năm2001 – 1 tháng 3 năm2011 9 năm, 314 ngày |
| Tiền nhiệm | Phạm Thanh Ngân |
| Kế nhiệm | Ngô Xuân Lịch |
| Nhiệm kỳ | tháng 9 năm1998 – tháng 4 năm2001 |
| Tiền nhiệm | Đào Trọng Lịch |
| Kế nhiệm | Phùng Quang Thanh |
| Nhiệm kỳ | 22 tháng 4 năm2001 – 19 tháng 1 năm2011 9 năm, 272 ngày |
| Nhiệm kỳ | tháng 1 năm1998 – tháng 9 năm1998 |
| Nhiệm kỳ | tháng 10 năm1995 – tháng 1 năm1998 |
| Tiền nhiệm | Đỗ Quang Hưng |
| Kế nhiệm | Phan Trung Kiên |
Tư lệnhQuân đoàn 4 | |
| Nhiệm kỳ | tháng 10 năm1991 – tháng 10 năm1995 |
| Tiền nhiệm | Vũ Văn Thược |
| Kế nhiệm | Nguyễn Minh Chữ |
Thông tin cá nhân | |
| Quốc tịch | |
| Sinh | 25 tháng 12, 1945(79 tuổi) Giồng Trôm,Bến Tre,Việt Nam |
Binh nghiệp | |
| Thuộc | |
| Năm tại ngũ | 1963–2011 |
| Cấp bậc | |
| Chỉ huy | |
| Tham chiến | |
Lê Văn Dũng (sinh năm1945) là một tướng lĩnh cao cấp, quân hàmĐại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụBí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (từ2001 đến2011) vàTổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (từ1998 đến2001).Huân chương Hồ Chí Minh (năm 2014)[1]
Ông tên thật làNguyễn Văn Nới, sinh ngày25 tháng 12 năm1945 tại xã Phong Mỹ, huyệnGiồng Trôm, tỉnhBến Tre (nay là xãGiồng Trôm, tỉnhVĩnh Long).
Năm 1963, ông thoát ly gia đình, lấy tên mới làLê Văn Dũng.
• Ngày 14 tháng 5 năm 1963, ông nhập ngũ vào bộ đội chủ lực củaQuân Giải phóng Miền Nam, trở thành chiến sĩ trinh sát của Đại đội 12 Tiểu đoàn 3, Đoàn Q761 (tức Đoàn Bình Giã).
• Từ khiCông trường 9 (sư đoàn 9) được thành lập, ông lần lượt giữ các chức vụ Tiểu đội trưởng trinh sát, Trung đội phó bộ binh, Trung đội trưởng, Đại đội phó Đại đội 12 Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 1Sư đoàn 9.
• Ông được kết nạpĐảng Lao động Việt Nam ngày23 tháng 9 năm 1965, trở thành đảng viên chính thức ngày23 tháng 9 năm 1966.
• Tháng 6 năm 1968, ông chuyển sang công tác chính trị quân đội, được cử làm Chính trị viên Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 1 Sư đoàn 9.
• Tháng 3 năm 1969, ông là Chính trị viên phó, tháng 9 cùng năm trở thành Chính trị viên Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 1, Sư đoàn 9.
• Tháng 12 năm 1970, ông được cử đi học tại H14 (Trường trung cấp Quân chính thuộc Bộ chỉ huy Miền, lớp cán bộ trung đoàn). Tháng 6 năm 1971, ông trở về đơn vị, được cử làm Phó chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn 1 Sư đoàn 9, cấp bậcĐại úy.
• Tháng 3 năm 1973, ông được thăng làm Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 (từ 20 tháng 7 năm 1974 thuộcQuân đoàn 4), cấp bậcThiếu tá. Tháng 10 năm 1974, ông giữ vị trí Chính ủy Trung đoàn 1 Sư đoàn 9, cấp bậcTrung tá. Ông tham giaChiến dịch Hồ Chí Minh, thuộc cánh quân Tây Nam của đoàn 232 -Binh đoàn Cửu Long.[2]
• Đơn vị ông làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, tháng 12 năm 1977 ông được triệu hồi về nước và cử đi học bổ túc văn hóa tại Trường Văn hóaBộ Quốc phòng.
• Tháng 8 năm 1978, ông theo học tạiHọc viện Quân sự cấp cao. Ông tham giaChiến dịch phản công biên giới Tây-Nam Việt Nam.
• Tháng 8 năm 1980, ông trở lại đơn vị, giữ chức Sư đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn 9,Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), cấp bậcThượng tá.
• Tháng 4 năm 1984, ông được cử đi học tại Trường Ngoại ngữ Quân sự Bộ Quốc phòng.
• Tháng 6 năm 1986, ông giữ chức vụ Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9 Quân đoàn 4, cấp bậcĐại tá.
• Tháng 2 năm 1988, đơn vị ông hoàn thành nhiệm vụ quốc tế và rút về nước, ông được cử đi học bổ túc tại Học viện FrundeLiên Xô. Tháng 4 năm 1989, ông được thăng quân hàmThiếu tướng.
• Tháng 8 năm 1989 trở về nước, ông được bổ nhiệm Phó tư lệnh thứ nhất Quân đoàn 4.
• Tháng 8 năm 1989, ông được cử đi học bổ túc lý luận cao cấp tạiHọc viện Chính trị Quân sự. Tháng 9 năm 1990, ông được bổ nhiệm làm Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởngQuân khu 7.
• Tháng 10 năm 1991, ông được chuyển sang làm Tư lệnhQuân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long).
• Tháng 10 năm 1995, ông được chuyển trở lạiQuân khu 7 giữ chức Tư lệnh.
•Tháng 1 năm 1998, ông được điều về Bộ Quốc phòng, giữ chứcPhó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. (Kế nhiệm ông tại Quân khu 7 làPhan Trung Kiên, sau trở thành Thứ trưởng Bộ Quốc phòng). Tháng 4 năm đó, ông được thăng quân hàmTrung tướng.
• Tháng 9 năm 1998, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởngBộ Quốc phòng kiêmTổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (thay Trung tướngĐào Trọng Lịch tử nạn máy bay).
• Ngày 7 tháng 11 năm 2000, sau vụ cựu phi côngViệt Nam Cộng hòaLý Tống đã cướp một chiếc máy bay nhỏ tạiThái Lan bay sangThành phố Hồ Chí Minh, thả hơn 50.000 tờ truyền đơn. Vì vụ kiểm điểm này ông bị kỷ luật hình thứckhiển trách do liên quan tới trách nhiệm trên cương vịTổng tham mưu trưởng.[3]
• Tháng 5 năm 2001, ông chuyển công tác trở lạiTổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, giữ chứcChủ nhiệm. (Kế nhiệm chức vụ Tổng tham mưu trưởng làTrung tướngPhùng Quang Thanh, sau trở thànhBộ trưởng Quốc phòng).
• Ông đượcChủ tịch nước thăng quân hàm từTrung tướng lênThượng tướng tháng 6 năm 2003, lênĐại tướng vàotháng 7 năm2007 (cùng được thăngĐại tướng vào đợt này có bộ trưởngPhùng Quang Thanh).
• Ông trúng cửỦy viên Ban Chấp hành Trung ương các khóaVIII,IX,X, được bầu vàoBan Bí thư các khoá IX, X.
• Ông cũng được bầu làm Đại biểuQuốc hội các khóa XI, XII.
• Ông không tham gia tái cử tạiĐại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XI, một động thái được cho là chuẩn bị để cho ông nghỉ hưu. Trung tướngNgô Xuân Lịch,Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, được bầu vàoBan Bí thư tại kỳ đại hội này, đã kế nhiệm ông trong chức vụChủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam kể từ ngày 1 tháng 3 năm 2011.
| Năm thụ phong | 1971 | 1973 | 1974 | 1980 | 1986 | 1989 | 1998 | 2003 | 2007 | ||
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| Cấp bậc | Đại úy | Thiếu tá | Trung tá | Thượng tá | Đại tá | Thiếu tướng | Trung tướng | Thượng tướng | Đại tướng | ||