Từ góc trên trái: Cổng Vàng, Tòa nhà Trường Đại học Đỏ, Kiev Pechersk Lavra, Nhà thờ Thánh Andrew, Berehynia trên quảng trường Độc Lập và tượng Bohdan Khmelnytsky
Kyiv (tiếng Ukraina:Київ,phát âm[ˈkɪjiu̯]ⓘ), cũng được biết tới với tên từtiếng Nga làKiev (Ки́ев),[1][2] làthủ đô và là thành phố lớn nhất nướcUkraina. Thành phố tọa lạc tại bắc trung bộ của quốc gia này, dọc theo đôi bờsông Dnipro. Kyiv trải rộng trên diện tích 839 km² với dân số tính đến tháng 7 năm 2013 là 2.847.200 người; nếu tính cả số dân đăng ký không chính thức thì dân số của Kyiv là 3 triệu người.[3]
Kyiv là thành phố trực thuộc trung ương, nằm bêntỉnh Kyiv nhưng không thuộc tỉnh này. Đây là một trong các trung tâmcông nghiệp,khoa học vàvăn hóa củaĐông Âu. Nơi đây có nhiều viện nghiên cứu,trường đại học và nhiều di tích lịch sử nổi tiếng trên thế giới. Giao thông của thành phố phát triển cao, nhất là hệ thống giao thông công cộng nhưxe buýt vàtàu điện ngầm.Thành phố Kyiv một trong những thành phố lâu đời nhất Đông Âu đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và những biến cố lịch sử. Thành phố là một trung tâm thương mại vào đầu thế kỷ 5. Là một khu định cư của người Slav ở trên con đường thương mại giữaScandinavia vàConstantinopolis, Kyiv là nơi sinh sống của một nhánh thuộc bộ lạcKhazar,[4] cho đến khi bị nhữngngười Varangia (Viking) chiếm giữ vào thế kỷ 9. Dưới thời cai trị củaVarangia, thành phố đã trở thành thủ phủ củaKiev Rus', quốc giaĐông Slav đầu tiên.Đô thành Kyiv bị hủy hoại hoàn toàn trong thời kỳMông Cổ xâm lược vào năm 1240, khiến thành phố mất hết tầm ảnh hưởng của mình trong hàng thế kỷ sau đó. Thành phố từng bị kiểm soát bởi các cường quốc hùng mạnh, ban đầu làĐại công quốc Lietuva, sau đó làLãnh địa quốc vương Ba Lan vàĐế quốc Nga.[5]
Thành phố phồn thịnh trở lại trong thời kỳcách mạng công nghiệp củaĐế quốc Nga cuối thế kỷ 19. Năm 1917, sau khiCộng hòa Nhân dân Ukraina tuyên bố độc lập khỏi Đế quốc Nga, Kyiv trở thành thủ đô. Từ năm 1921 trở về sau, Kyiv là một thành phố quan trọng củaCộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Ukraina và từ 1934 là thủ đô nước cộng hòa này. Trongthế chiến II, thành phố lại bị hư hại nhưng nhanh chóng hồi phục trong những năm sau chiến tranh, là thành phố lớn thứ ba củaLiên Xô. Sau khi Liên Xôsụp đổ, Ukraina giành độc lập vào năm 1991 và chọn Kyiv là thủ đô, tiếp nhận đều đặn làn sóng người di cư từ các vùng khác của đất nước. Trong quá trình chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế thị trường và dân chủ, Kiev vẫn tiếp tục là lớn nhất và giàu có nhất thành phố của Ukraina. Sản lượng công nghiệp về trang bị vũ khí quân sự giảm mạnh khi Liên Xô sụp đổ, nhưng nó cũng là động lực để nền kinh tế chuyển đổi sang các lĩnh vực mới như dịch vụ tài chính và tiếp tục tạo tăng trưởng cho Kyiv. Là hành lang kết nối Đông và Tây châu Âu, Kyiv nhận được sự đầu tư lớn và liên tục vào nhà ở và cơ sở hạ tầng đô thị, là nơi chịu ảnh hưởng đan xen của lực lượng ủng hộ xích gần với phương Tây và lực lượng muốn giữ quan hệ thân Nga trong không gian thuộc Liên Xô cũ.
Theo cuốnPovest' vremennykh let (Biên niên sử chính), tên gọi Kyiv hay Kiev đều bắt nguồn từKyi (Кий, tiếng Nga:Кий[12]). Theo nhà ngôn ngữ họcOleg Nikolayevich Trubachyov, tên gọi này bắt nguồn từ tên tiếng Slav Đông Cổ*Kyjevŭ gordŭ (nghĩa đen là "lâu đài của Kyi", "gord của Kyi"), từ tiếng Slav nguyên thủy*kyjevъ.[13] Tuy nhiên, một số người đặt ra nghi vấn về nguồn gốc này, đặc biệt làMykhailo Serhiiovych Hrushevsky, người coi tên Kiev/Kyiv là nguồn gốc của tên những người sáng lập ra thành phố này. Theo nhà ngôn ngữ học người Canada gốc UkrainaJaroslav Rudnyckyj, tên này có thể liên quan đến gốc tiếng Slav nguyên thủy *kyjь, nhưng nên được hiểu là có nghĩa là 'cây gậy, cột' như trong tiếng Ukraina hiện đại tương đương là Кий. Trong trường hợp đó, tên này nên được hiểu làkhu định cư có hàng rào.[14]
Kyiv là tên chính thức trong tiếng Ukraina của thành phố,[15][16] và được sử dụng cho các hoạt động lập pháp và chính thức.[17] Kiev là tên tiếng Anh truyền thống của thành phố,[15][18][19] nhưng do có nguồn gốc từ tên tiếng Nga nên nhiều cơ quan truyền thông phương Tây dần tránh sử dụng tên Kiev sau khiChiến tranh Nga-Ukraina nổ ra vào năm 2014, kết hợp với chiến dịchKyivNotKiev do Ukraina phát động nhằm thay đổi cách các phương tiện truyền thông quốc tế viết tên thành phố.[20] Tại Việt Nam, các phương tiện truyền thông sử dụng cả Kyiv[21] và Kiev (với mức độ thường xuyên hơn).[1][2]
Kyiv là một trong những thành phố cổ nhất của Đông Âu, từng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền văn minh Đông Slav thờitrung cổ cũng như trong quốc gia Ukraina hiện đại.Người ta tin rằng Kiev được thành lập vào cuối thế kỷ thứ 9. Nguồn gốc của thành phố bị che phủ bởi những huyền sử, một trong số đó nói về sự thành lập của 1 bộ tộc Slav lãnh đạo đạo bởi Kyi. Theo sách cổBiên niên sử chính biên thì Kyi là người lớn tuổi nhất trong các anh em của mình, có hai người em trai là Shchek và Khoryv và 1 em gái là Lybid, là người sáng lập thành phố.Người ta tìm thấy trong tài liệu củaPtolemaeus có ghi tên của thành phố là Metropotity (thế kỷ 2).Một truyền thuyết khác nói rằngThánh Anrê đi qua khu vực này và ông dựng lên ở nơi đây một cây thánh giá, xây dựng một nhà thờ. Từ thờiTrung cổ hình ảnh củaTổng lãnh thiên thần Micae đại diện cho thành phố cũng như đất đai của các vị công tước.Người Slav định cư rải rác xung quanh khắp khu vực này từ thế kỷ thứ 6. Có rất ít bằng chứng lịch sử liên quan đến thời gian khi thành phố được thành lập và được phát triên sau đó. Vào thế kỷ thứ 8, có nhiều công sự được xây dựng trên khu vực người Slav sinh sống đã bị bỏ hoang cả vài thập kỷ.
Về mặt địa lý, Kiev thuộc vùng sinh tháiPolesia (một phần của rừng gỗ hỗn hợp châu Âu). Tuy nhiên, cảnh quan độc nhất của thành phố khác biệt với vùng xung quanh.
Kiev nằm ở bai bênsông Dnipro, sông này chảy về phía nam và đổ vàobiển Đen. Phần bên hữu ngạn hay bờ tây cổ hơn, đặc trưng bởi những đồi cây, khe nứt và các sông nhỏ. Trong thế kỷ 20, Kiev mở rộng về phía vùng đất thấp của tả ngạn (về phía đông). Những vùng quan trọng của thung lũng Dnipro thuộc bờ trái được tích tụ bởi cát nhân tạo và được bảo vệ bởi các đập.
Sông Dnipro hình thành hệ thống phụ lưu, doi, và cảng bên trong ranh giới thành phố. Địa hình thành phố là cầu nối giữasông Desna vàhồ chứa Kyiv ở phía bắc, vàhồ chứa Kaniv ở phía nam. Cả hai sông Dnipro và Desna đều có thể đi đến Kiev, mặc dù bị hạn chế bởi quy định vật hành khóa thuyền của các hồ chứa và giới hạn bị đóng băng trong mùa đông.
Tổng cộng có 448 vực nước mở trong ranh giới Kiev, bao gồm sông Dnipro, các hồ chứa nước, và nhiều sông nhỏ, hàng chục hồ và các hồ nhân tạo. Chúng chiếm 7949 ha lãnh thổ. Thêm vào đó, điểm nổi bật của thành phố là 16 bãi biển nhân tạo (tổng 140 ha) và 35 khu vui chơi giải trí gần vực nước (chiếm hơn 1000 ha). Nhiều vực nước được sử dụng cho các trò chơi giải trí, mặc dù một số không thích hợp cho bơi lội.[22]
Kiev có khí hậu lục địa ẩm (KöppenDfb).[24] Các tháng ấm nhất là tháng 6, 7, và 8 với nhiệt độ trung bình 13,8 đến 24,8 độ C. Các tháng lạnh nhất là tháng 12, 1, và tháng 2 với nhiệt độ trung bình -4,6 đến -1,1 độ C. Nhiệt độ cao nhất ghi nhận được là 39,4° vào 31 tháng 7 năm 1936. Nhiệt độ lạnh nhất ghi nhận được là -32,2 °C vào ngày 7 & 9 tháng 2 năm 1929. Tuyết thường phủ từ giữa tháng 11 đến cuối tháng 3, với thời gian đóng băng kéo dài trung bình 180 ngày, nhưng không quá 200 ngày trong những năm gần đây.[25]
Theo thống kê năm 2001, dân số Kyiv là 2.611.300.[3] Những thay đổi về dân số thể hiện trong bảng kế bên. Theo thống kê, nam là 1.219.000 hay 46,7%, và 1.393.000 người hay 53,3%. So với số thống kê năm 1989, dân số thành phố đang trong tình trạnglão hóa, trong khi phổ biến trong cả nước thì một lượng đáng kể dân Kiev được bù bởi dòng người di cư trong độ tuổi lao động từ những vùng khác. Có khoảng 1.069.700 dân có trình độ trên hoặc đã hoàn thành trung học, tăng 21,7% so với năm 1989.
Một đáng giá về dân số không chính thức tháng 6 năm 2007 dựa trên lượng sản phẩm bánh ngọt bán ra trong thành phố (số liệu này bao gồm cả khách và người đi đường) với con số ít nhất 3,5 triệu.[31]
Theo số liệu thống kê năm 2001, có hơn 130 quốc tịch và các nhóm dân tộc sống bên trong lãnh thổ Kiev. Người Ukraina là nhóm dân tộc lớn nhất ở Kiev với khoảng 2.110.800 người, chiếm 82,2% dân số thành phố. Các sắc dân khác: người Nga 337.300 người (13,1%),người Do Thái 17.900 (0,7%),người Belarus 16.500 (0,6%),người Ba Lan 6.900 (0,3%),người Armenia 4.900 (0,2%),người Azerbaijan 2.600 (0,1%),người Tatar 2.500 (0,1%),Người Gruzia 2.400 (0,1%),người Moldova 1.900 (0,1%).
Cả hai thứ tiếng Ukraina và Nga được sử dụng phổ biến trong thành phố; khoảng 75% dân số Kiev nói họ sử dụng tiếng Ukraina làm tiếng mẹ đẻ theo số liệu năm 2001, gần 25% người coi tiếng Nga là tiếng mẹ đẻ.[32] Theo một cuộc khải sát năm 2006, tiếng Ukraina được 23% người Kyiv sử dụng ở nhà, 52% tiếng Nga và 24% dùng cả hai.[33] Trong cuộc khải sát xã hội học năm 2003, khi được hỏi 'ngôn ngữ nào bạn sử dụng trong cuộc sống hàng ngày?', 52% nói họ 'chủ yếu dùng tiếng Nga', 32% 'cả hai Nga và Ukraina sử dụng ngang nhau', 14% 'chủ yếu dùng tiếng Ukraina', và 4,3% 'chỉ sử dụng tiếng Ukraina'.[34]
^Trubachev, O. N. biên tập (1987). “*kyjevъ/*kyjevo”.Ėtimologicheskiĭ slovarʹ slavi͡anskikh I͡Azykov: Praslavi͡anskiĭ leksicheskiĭ fond (bằng tiếng Nga). 13 (*kroměžirъ–*kyžiti). Moscow: Nauka. tr. 256–257.
^Rudnyc'kyj, Jaroslav Bohdan (1962–1982). An etymological dictionary of the Ukrainian language. 2., rev. ed. Winnipeg: Ukrainian free acad. of sciences, pp. 660–663.
^ab“Kiev”.Collins English Dictionary (bằng tiếng Anh). HarperCollins.Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2020. The entry is the same as the print edition ofCollins Dictionary of English (ấn bản thứ 13). Glasgow, UK: HarperCollins. 2018. It includes the note "Ukrainian name: Kyiv". For American English, the website also includes the definition fromWebster's New World College Dictionary (ấn bản thứ 4). Boston: Houghton Mifflin Harcourt. 2010. In the 2018 fifth edition, WNWCD changed the main headword toKyiv, withKiev as a see-also entry with the label "Russ. name forKyiv".
^“Kiev”.Merriam-Webster.com Dictionary (bằng tiếng Anh). Merriam-Webster.Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2020. Merriam–Webster's online dictionary entry has the headword "Kiev" with the label "variants:or UkrainianKyivorKyyiv." According to M–W'shelp on entriesLưu trữ 11 tháng 8 năm 2020 tạiWayback Machine, the key wordor signals an equal variant spelling: "these the two spellings occur with equal or nearly equal frequency and can be considered equal variants. Both are standard, and either one may be used according to personal inclination."
^Ukrainian Commission for Legal Terminology.“Kiev?, Kyiv?! Which is right?”. UA Zone.Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2011.
^“Kiev”.Oxford Dictionary on Lexico.com (bằng tiếng Anh).Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2020. The entry includes the usage note "Ukrainian nameKyiv", and the dictionary has a see-also entry for "Kyiv" cross-referencing this one. The entry text is republished from the print edition of theOxford Dictionary of English (ấn bản thứ 3). Oxford University Press. 2010.
^“Kiev”.Longman Dictionary of Contemporary English Online. Pearson English Language Teaching.Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2020.
^Design by Maxim Tkachuk, web-architecture by Volkova Dasha, templated by Alexey Kovtanets, programming by Irina Batvina, Maxim Bielushkin, Sergey Bogatyrchuk, Vitaliy Galkin, Victor Lushkin, Dmitry Medun, Igor Sitnikov, Vladimir Tarasov, Alexander Filippov, Sergei Koshelev.“Где в Киеве лучше не купаться » Новости в Киеве – Корреспондент”. Korrespondent.net. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2009.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Cappelen, John; Jensen, Jens.“Ukraine - Kiev”(PDF).Climate Data for Selected Stations (1931-1960) (bằng tiếng Đan Mạch). Danish Meteorological Institute. tr. 332.Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2016.Chú thích có tham số trống không rõ:|1= (trợ giúp)
^Vilenchuk, S. R.; Yatsuk, T.B. (eds.) (2009).Kyiv Statistical Yearbook for 2008. Kiev: Vydavnytstvo Konsultant LLC. tr. 213.ISBN978-966-8459-28-3.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
^Kudritskiy, A. V. (1982).KIEV entsiklopedicheskiy spravochnik. Kiev: Glavnaya redaktsia Ukrainskoy Sovetskoy Entsiklopedii. tr. 30.