Kinh tế (Tiếng Anh:economy) là một lĩnh vựcsản xuất,phân phối vàthương mại, cũng nhưtiêu dùnghàng hóa vàdịch vụ. Tổng thể, nó được định nghĩa là một lĩnh vực xã hội tập trung vào các hoạt động, tranh luận và các biểu hiện vật chất gắn liền với việc sản xuất, sử dụng và quản lý cácnguồn tài nguyên khan hiếm.[1] Một nền kinh tế là một tập hợp các quá trình liên quan đếnvăn hóa,giá trị,giáo dục, phát triểncông nghệ, lịch sử,tổ chức xã hội,cấu trúc chính trị,hệ thống luật pháp vàtài nguyên thiên nhiên làm các yếu tố chính. Những yếu tố này cung cấp bối cảnh, nội dung và thiết lập các điều kiện và thông số mà một nền kinh tế vận hành. Nói cách khác, lĩnh vực kinh tế là một lĩnh vực xã hội bao gồm các hoạt động và giao dịch của con người có liên quan với nhau mà không đứng riêng lẻ.
Các tác nhân kinh tế có thể là cá nhân,doanh nghiệp,tổ chức hoặcchính phủ. Các giao dịch kinh tế xảy ra khi hai nhóm hoặc các bên đồng ý với nhau về giá trị hoặc giá cả củahàng hóa hoặc dịch vụ được giao dịch, thường được biểu thị bằng một loạitiền tệ nhất định. Tuy nhiên, các giao dịch tiền tệ chỉ chiếm một phần nhỏ trong lĩnh vực kinh tế.
Hoạt động kinh tế được thúc đẩy bởi sản xuất sử dụng tài nguyên thiên nhiên, lao động và vốn. Nó đã thay đổi theo thời gian docông nghệ,sự đổi mới (sản phẩm, dịch vụ, quy trình mới, mở rộng thị trường, đa dạng hóa thị trường, thị trường ngách, tăng chức năng doanh thu) chẳng hạn như sản xuất tài sản trí tuệ và thay đổi trongquan hệ lao động (đáng chú ý nhất làlao động trẻ em được thay thế ở một số nơi trên thế giới vớikhả năng tiếp cận giáo dục phổ thông).
Từkinh tế (economy) trong tiếng Anh có nguồn gốc từyconomie củatiếng Pháp trung đại, bản thân từ này có nguồn gốc từoeconomia củatiếng Latinh Trung Cổ. Từ Latinh lại có nguồn gốc từoikonomia hoặcoikonomos củatiếng Hy Lạp cổ đại. Phần đầu tiên của từoikos có nghĩa là "ngôi nhà", và phần thứ hainemein có nghĩa là "quản lý".[2]
Nghĩa hiện tại được sử dụng thường xuyên nhất, mang nghĩa là "hệ thống kinh tế của một quốc gia hoặc một khu vực", dường như chưa được sử dụng phổ biến cho đến những năm 1650.[3]
Tranh khảm của La Mã cổ đại từBosra, mô tả một thương nhân dẫn lạc đà qua sa mạc
Miễn là ai đó đã tạo ra, cung cấp và phân phối hàng hóa hoặc dịch vụ, thì đã có một nền kinh tế nào đó tồn tại; các nền kinh tế phát triển lớn hơn khi xã hội phát triển và trở nên phức tạp hơn.Người Sumer đã phát triển một nền kinh tế quy mô lớn dựa trên"tiền tệ hàng hóa", trong khi ngườiBabylon và cácthành bang lân cận của họ sau đó đã phát triển hệ thốngkinh tế học sớm nhất như chúng ta nghĩ, về các quy tắc/luật vềnợ, hợp đồng pháp lý và các quy tắc luật liên quan đến thực tiễn kinh doanh, và tài sản tư nhân.[4][5]
Nền kinh tế cổ đại chủ yếu dựa vàocanh tác nông nghiệp tự cung tự cấp.[6] Đồng tiềnShekel là loại đầu tiên dùng để chỉ một đơn vị trọng lượng và tiền tệ, được sử dụng bởingười Semitic. Cách sử dụng đầu tiên của thuật ngữ này bắt nguồn từvùng Lưỡng Hà vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên và dùng để chỉ một khối lượng cụ thểđại mạch có liên quan đến các giá trị khác trong mộthệ mét như bạc, đồng, đồng, v.v. Đại mạch/shekel ban đầu vừa là đơn vịtiền tệ vừa là đơn vị trọng lượng, cũng giống như bảng Anh (British Pound) ban đầu là đơn vị biểu thị khối lượng một pound bạc.[7]
Đối với hầu hết mọi người, việc trao đổi hàng hóa diễn ra thông qua các mối quan hệ xã hội. Cũng có những người buôn bán trao đổi ở chợ. ỞHy Lạp cổ đại, nơi bắt nguồn từ "kinh tế" trong tiếng Anh ngày nay,[2] nhiều người lànô lệ của những người chủ tự do.[8] Các cuộc thảo luận về kinh tế được thúc đẩy bởisự khan hiếm.
Vào thời Trung Cổ, cái gọi là nền kinh tế ngày nay không còn quá xa so với mức tự cung tự cấp. Hầu hết trao đổi diễn ra trongcác nhóm xã hội. Trên hết, những người chinh phục thế giới vĩ đại đã nêu ra cái mà ngày nay chúng ta gọi làđầu tư mạo hiểm (từventura, ital.;rủi ro) để tài trợ tài chính cho việc xâm lược của họ.Vốn được hoàn lại bằng hàng hóa mà họ mang đếnTân Thế giới. Khám phá củaMarco Polo (1254–1324),Christopher Columbus (1451–1506) vàVasco da Gama (1469–1524) đã hình thành nên nền kinh tếtoàn cầu đầu tiên. Cácdoanh nghiệp đầu tiên là các cơ sở kinh doanh. Năm 1513,sàn giao dịch chứng khoán đầu tiên được thành lập ởAntwerp, Bỉ. Nền kinh tế vào thời điểm đó chủ yếu mang ý nghĩa làthương mại.
Các cuộc xâm chiếm châu Âu trở thành lãnh thổ của các quốc giachâu Âu, cái gọi làthuộc địa. Cácquốc gia đang đi lên nhưTây Ban Nha,Bồ Đào Nha,Pháp,Anh vàHà Lan đã cố gắng kiểm soát thương mại thông quathuế hải quan và (từ mercator,latinh:thương gia) là cách tiếp cận đầu tiên để trung gian giữa của cải tư nhân vàlợi ích công cộng. Việcthế tục hóa ở châu Âu cho phép các nước sử dụng tài sản khổng lồ của giáo hội để phát triển các thị trấn. Ảnh hưởng của giớiquý tộc giảm dần. NhữngBộ trưởng Ngoại giao đầu tiên về kinh tế đã bắt đầu công việc của họ. Các chủngân hàng nhưAmschel Mayer Rothschild (1773–1855) bắt đầu tài trợ cho các dự án quốc gia như chiến tranh vàcơ sở hạ tầng. Kinh tế từ đó có nghĩa là kinh tế quốc dân như một chủ đề cho các hoạt động kinh tế của cáccông dântrong một nhà nước.
Nhàkinh tế học đầu tiên theo nghĩa hiện đại thực sự của từ này là một người ScotlandAdam Smith (1723–1790), ông đã được truyền cảm hứng một phần từ những ý tưởng về dânlý học, một phản ứng với chủ nghĩa trọng thương và sau này cũng là một sinh viên kinh tế, Adam Mari.[9] Ông định nghĩa các yếu tố của nền kinh tế quốc dân:sản phẩm được chào bán ởmức giá tự nhiên do sử dụngcạnh tranh -cung và cầu - vàphân công lao động. Ông khẳng định rằng động lực cơ bản củathương mại tự do là tư lợi của con người. Cái gọi là giả thuyết tư lợi đã trở thành cơ sởnhân học cho kinh tế học.Thomas Malthus (1766–1834) đã chuyển ý tưởng về cung và cầu sang vấn đềdân số quá đông.
Khái niệm đương đại về "nền kinh tế" không được biết đến rộng rãi cho đến khi cuộcĐại suy thoái ở Mỹ vào những năm 1930.[11]
Sau sự hỗn loạn của haiThế chiến và cuộc Đại suy thoái kinh hoàng, các nhà hoạch định chính sách đã tìm kiếm những cách thức mới để kiểm soát diễn biến của nền kinh tế. Điều này đã được khám phá và thảo luận bởiFriedrich August von Hayek (1899–1992) vàMilton Friedman (1912–2006), những người đã mong đợi một nềnthương mại tự do toàn cầu và được cho là cha đẻ của cái gọi làchủ nghĩa tự do mới.[12][13] Tuy nhiên, quan điểm phổ biến là củaJohn Maynard Keynes (1883–1946), người đã lập luận để nhà nước kiểm soátthị trường mạnh mẽ hơn. Lý thuyết cho rằng nhà nước có thể làm giảm bớt các vấn đề kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc nhà nước thao túng tổng cầu được gọi làChủ nghĩa Keynes để tôn vinh ông.[14] Vào cuối những năm 1950, sự tăng trưởng kinh tế ở Mỹ và Châu Âu - thường được gọi làWirtschaftswunder (tiếng Đức:phép màu kinh tế) - đã tạo ra một hình thức kinh tế mới: nềnkinh tế tiêu dùng hàng loạt. Năm 1958,John Kenneth Galbraith (1908–2006) là người đầu tiên nói về mộtxã hội giàu có trong cuốn sáchThe Affluent Society của ông. Ở hầu hết các quốc gia, hệ thống kinh tế được gọi lànền kinh tế thị trường xã hội.[15]
VớiCách mạng năm 1989 và sự chuyển đổi của các nước thuộc Khối phương Đông sang chính phủ dân chủ và nền kinh tế thị trường, ý tưởng vềxã hội hậu công nghiệp được coi trọng vì vai trò của nó là cùng nhau đánh dấu ý nghĩa màngành dịch vụ nhận được thay vì công nghiệp hóa. Một số cho rằng việc sử dụng thuật ngữ này lần đầu tiên là trong cuốn sách năm 1973 của Daniel Bell,The Coming of Post-Industrial Society, trong khi những người khác gán nó cho cuốn sách của nhà triết học xã hội Ivan Illich,Tools for Conviviality. Thuật ngữ này cũng được áp dụng trong triết học để chỉ sự lụi tàn củachủ nghĩa hậu hiện đại vào cuối những năm 90 và đặc biệt là vào đầu thế kỷ 21.
Với sự phổ biến củaInternet như một phương tiện truyền thông và thông tin đại chúng, đặc biệt là sau năm 2000–2001, ý tưởng cho Internet vànền kinh tế thông tin được đưa ra vì tầm quan trọng ngày càng tăng củathương mại điện tử và các doanh nghiệp điện tử, cũng là thuật ngữ chỉ một xã hội thông tin toàn cầu, khi sự hiểu biết về một kiểu xã hội "tất cả được kết nối với nhau" mới được tạo ra. Vào cuối những năm 2000, loại hình kinh tế mới và sự mở rộng kinh tế của các nước nhưTrung Quốc,Brazil vàẤn Độ gây chú ý và quan tâm khác với các nền kinh tế kiểu phương Tây và các mô hình kinh tế thường thống trị.
Giai đoạncách mạng công nghiệp làm giảm bớt vai trò của canh tác nông nghiệp tự cung tự cấp, và dần dần chuyển đổi sang các hình thức nông nghiệpđơn văn hóa vàmở rộng hơn trong ba thế kỷ qua. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu ở các ngànhcông nghiệp khai khoáng, xây dựng và sản xuất.Thương mại trở nên quan trọng hơn do nhu cầu trao đổi và phân phối sản phẩm được cải thiện trong xã hội.
Khu vực công hoặc khu vực nhà nước (thường bao gồm: quốc hội, tòa án luật và trung tâm chính phủ, các dịch vụ khẩn cấp khác nhau, y tế công cộng, nơi trú ẩn cho những người nghèo khổ và bị đe dọa, phương tiện giao thông, cảng hàng không/biển, chăm sóc hậu sinh, bệnh viện, trường học, thư viện, bảo tàng, các di tích lịch sử được bảo tồn, công viên/vườn cây, khu bảo tồn thiên nhiên, một số trường đại học, sân thể thao/sân vận động quốc gia, nghệ thuật quốc gia/phòng hòa nhạc hoặc nhà hát và trung tâm văn hóa cho các tôn giáo khác nhau).
Khu vực tư nhân hoặc các doanh nghiệp do tư nhân điều hành trực tiếp.
Khu vực tình nguyện hoặc khu vực xã hội, thường hoạt động vì lợi ích chung của cộng đồng và có thể có hoặc không có lợi nhuận danh nghĩa.[21]
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của một quốc gia là thước đo quy mô nền kinh tế của quốc gia đó, hay cụ thể hơn, là thước đo tiền tệ của giá trị thị trường của tất cả cáchàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra.[22] Phân tích kinh tế thông thường nhất của một quốc gia chủ yếu dựa vào các chỉ số kinh tế như GDP vàGDP bình quân đầu người. Trong khi thường hữu ích, GDP chỉ bao gồm hoạt động kinh tế mà tiền được trao đổi.
Do tầm quan trọng ngày càng tăng của khu vực tài chính trong thời hiện đại,[23] thuật ngữnền kinh tế thực (real economy) được sử dụng bởi các nhà phân tích[24][25] cũng như các chính trị gia[26] để biểu thị một phần của nền kinh tế có liên quan đến thực tế, sản xuất hàng hóa và dịch vụ,[27] bề ngoài tương phản vớinền kinh tế giấy (paper economy), hoặc khía cạnh tài chính của nền kinh tế,[28] liên quan đến việc mua và bán trên thị trường tài chính. Thuật ngữ thay thế và lâu đời phân biệt các thước đo của một nền kinh tế được thể hiện bằng giá trịthực (được điều chỉnh theolạm phát), chẳng hạn nhưGDP thực, hoặc giá trịdanh nghĩa (không điều chỉnh theo lạm phát).[29]
^Bronson, Bennet (tháng 11 năm 1976), "Cash, Cannon, and Cowrie Shells: The Nonmodern Moneys of the World",Bulletin, quyển 47, Chicago: Field Museum of Natural History, tr. 3–15.
^G.E.M. de Ste. Croix,The Class Struggle in the Ancient Greek World (Cornell University Press, 1981), pp. 136–137, noting that economic historianMoses Finley maintained "serf" was an incorrect term to apply to the social structures of classical antiquity.
^Goldstein, Jacob (ngày 28 tháng 2 năm 2014)."The Invention Of 'The Economy'".NPR - Planet Money.Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
^"In the shadows".The Economist. ngày 17 tháng 6 năm 2004.Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2022.
^Kjeldsen-Kragh, Søren (2007).The Role of Agriculture in Economic Development: The Lessons of History. Copenhagen Business School Press DK. tr. 73.ISBN978-87-630-0194-6.
^Backhouse, Roger (2002).The Penguin history of economics. London.ISBN0-14-026042-0.OCLC59475581.Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2022.The boundaries of what constitutes economics are further blurred by the fact that economic issues are analysed not only by 'economists' but also by historians, geographers, ecologists, management scientists, and engineers.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: địa điểm thiếu nhà xuất bản (liên kết)
^Blum, Matthias; Colvin, Christopher L. (2018), Blum, Matthias; Colvin, Christopher L. (biên tập), "Introduction, or Why We Started This Project",An Economist's Guide to Economic History, Palgrave Studies in Economic History (bằng tiếng Anh), Springer International Publishing, tr. 1–10,doi:10.1007/978-3-319-96568-0_1,ISBN978-3-319-96568-0