Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Iran

Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Cộng hòa Hồi giáo Iran
Tên bản ngữ
  • جمهوری اسلامی ایران (tiếng Ba Tư)
    Jomhuri-ye Eslāmi-ye Irān
Quốc huy Iran
Quốc huy

Tiêu ngữ
استقلال، آزادی، جمهوری اسلامی
Esteqlāl, Āzādi, Jomhuri-ye Eslāmi
("Độc lập, tự do, Cộng hòa Hồi giáo")
(de facto)[1]

Quốc ca
سرود ملی جمهوری اسلامی ایران
Sorud-e Melli-ye Jomhuri-ye Eslāmi-ye Irān
("Quốc ca Cộng hòa Hồi giáo Iran")
Location of Iran
Tổng quan
Thủ đô
và thành phố lớn nhất
Tehran
35°41′B51°25′Đ / 35,683°B 51,417°Đ /35.683; 51.417
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Ba Tư
• Ngôn ngữ địa phương
Sắc tộc
Danh sách các dân tộc
Tôn giáo
Quốc giáo:
Hồi giáo(Twelver Shia)
Các tôn giáo thiểu số được công nhận:
Hồi giáo(Hanafi,Shafi'i,Maliki,Hanbali,Zaydi),
Kitô giáo(Armenia,Assyria,Chaldea),
Do Thái giáo,
Hỏa giáo
Tên dân cưNgười Iran,
người Ba Tư (trong lịch sử)
Chính trị
Chính phủde jure:
Cộng hòa Hồi giáotổng thống chếđơn nhất theo Tư tưởngKhomeini
de facto:
Cộng hòatổng thốngchuyên chế-thần quyềnđơn nhất[3][4][5] dưới sự lãnh đạo củaLãnh tụ Tối cao[6]
Ali Khamenei
Masoud Pezeshkian
Mohammad Bagher Ghalibaf
Gholam-Hossein Mohseni-Eje'i
Hội đồng Lợi ích Quốc gia[7]
Hội đồng bảo hiến
Hội đồng Hiệp thương Hồi giáo
Lịch sử
Lịch sử thành lập
k. 678 TCN
550 TCN
247 TCN
224 CN[8]
934 CN
1501[9]
15 tháng 12 năm 1925
7 tháng 1 năm 1978 – 11 tháng 2 năm 1979
24 tháng 10 năm 1979
28 tháng 7 năm 1989
Địa lý
Diện tích 
• Tổng cộng
1.648.195 km2 (hạng 17)
636.372 mi2
• Mặt nước (%)
7,07
Dân số 
• Ước lượng 2025
Tăng 92.417.681[10] (hạng 17)
52/km2 (hạng 132)
134,7/mi2
Kinh tế
GDP  (PPP)Ước lượng 2025
• Tổng số
Tăng 1,746 nghìn tỷ đô la Mỹ[11] (hạng 23)
Tăng 19.957 đô la Mỹ[11] (hạng 95)
GDP  (danh nghĩa)Ước lượng 2025
• Tổng số
Giảm 341,013 tỷ đô la Mỹ[11] (hạng 44)
• Bình quân đầu người
Giảm 3.897 đô la Mỹ[11] (hạng 128)
Đơn vị tiền tệRial (ریال) (IRR)
Thông tin khác
Gini? (2022)Giảm theo hướng tích cực 34,8[12]
trung bình
HDI? (2023)Tăng 0,799[13]
cao · hạng 75
Múi giờUTC+3:30 (IRST)
• Mùa hè (DST)
UTC+4:30 (IRDT)
Cách ghi ngày thángyyyy/mm/dd (SH)
Giao thông bênphải
Mã điện thoại+98
Mã ISO 3166IR
Tên miền Internet

Iran (tiếng Ba Tư:ایرانIrān[ʔiːˈɾɒːn]), quốc hiệu làCộng hòa Hồi giáo Iran (tiếng Ba Tư:جمهوری اسلامی ایرانJomhuri-ye Eslāmi-ye Irānlisten), còn được gọi làBa Tư (Persia), là một quốc gia tại khu vựcTây Á.[14][15] Iran có biên giới về phía tây bắc vớiArmenia,Azerbaijan; phía bắc giápbiển Caspi; phía đông bắc giápTurkmenistan; phía đông giápAfghanistanPakistan; phía nam giápvịnh Ba Tưvịnh Oman; còn phía tây giápThổ Nhĩ KỳIraq. Iran có dân số gần 86 triệu người tính đến năm 2024,[16] là quốc giađông dân thứ 17 trên thế giới.[17] Lãnh thổ Iran rộng 1.648.195 km², là quốc gia rộng thứ nhì tạiTrung Đôngđứng thứ 17 thế giới. Iran có vị thế địa chính trị quan trọng do nằm tại phần trung tâm củađại lục Á-Âu và gần vớieo biển Hormuz.[18]Tehran là thủ đô và thành phố lớn nhất của Iran, cũng như là trung tâm kinh tế và văn hoá. Iran là một quốc gia đa văn hoá với nhiều nhóm dân tộc và ngôn ngữ, trong đó các cộng đồng dân cư lớn nhất làngười Ba Tư (61%),người Azeri (16%),người Kurd (10%) vàngười Lur (6%).[19]

Iran là một trong các nền văn minh cổ nhất trên thế giới,[20][21] bắt đầu là các vương quốcElam vào thiên niên kỷ 4 TCN.Người Media thống nhất Iran vào thế kỷ VII TCN,[22] lãnh thổ Iran được mở rộng cực độ dưới thờiCyrus Đại đế củaĐế quốc Achaemenes vào thế kỷ VI TCN - là quốc gia rộng lớn nhất trên thế giới vào thời điểm đó.[23] Tuy nhiên, quốc gia này thất thủ trướcAlexandros Đại đế vào thế kỷ IV TCN, songĐế quốc Parthia nhanh chóng tái lập. Năm 224, Parthia bị thay thế bằngĐế quốc Sasanid, Sasanid trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới trong bốn thế kỷ sau đó.[24][25]Người Ả Rập theođạo Hồi chinh phục Sasanid vào thế kỷ VII, kết quả là Hồi giáo thay thế các tín ngưỡng bản địa nhưHoả giáoMinh giáo. Iran có đóng góp lớn vàoThời đại hoàng kim của Hồi giáo (thế kỷ VIII-XIII), sản sinh nhiều nhân vật có ảnh hưởng về nghệ thuật và khoa học.

Sau hai thế kỷ dưới quyền người Ả Rập là một giai đoạn các vương triều Hồi giáo bản địa, song tiếp đó Iran lại bịngười Thổngười Mông Cổ chinh phục.Người Safavid nổi lên vào thế kỷ XV, rồi tái lập một nhà nước Iran thống nhất.[26] Iran sau đó cải sangHồi giáo Shia, đánh dấu một bước ngoặt của quốc gia này cũng như lịch sử Hồi giáo.[9][27] Đến thế kỷ XVIII, dưới quyềnNader Shah, Iran trong một thời gian ngắn từng được cho là đế quốc hùng mạnh nhất đương thời.[28]Xung đột vớiĐế quốc Nga trong thế kỷ XIX khiến Iran mất đi nhiều lãnh thổ.[29][30] Cách mạng Hiến pháp năm 1906 lập ra một chế độquân chủ lập hiến. Sau một cuộc đảo chính vào năm 1953,Hoàng gia Iran dần liên kết mật thiết với phương Tây và ngày càng chuyên quyền.[31] Bất mãn trước sự can thiệp của nước ngoài và sự đàn áp chính trị đã dẫn đếnCách mạng Hồi giáo năm 1979 lật đổIran Pahlavi và lập ra chế độ Cộng hoà Hồi giáo.[32] Trong thập niên 1980, Iranxảy ra chiến tranh với Iraq, cuộc chiến gây thương vong cao và tổn thất tài chính lớn cho hai nước. Từ giữa cuối thập niên 2000,chương trình hạt nhân gây tranh cãi của Iran khiến cho cộng đồng quốc tế, đặc biệt làHoa Kỳ lo ngại, dẫn đến hệ quả là nhiềulệnh trừng phạt được áp đặt lên nước này, ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế và đời sống của người dân.[33]

Iran là một thành viên sáng lập củaLiên Hợp Quốc,Phong trào không liên kết,Tổ chức Hợp tác Hồi giáoTổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa. Iran được công nhận là mộtcường quốc khu vực và mộtcường quốc bậc trung.[34][35] Quốc gia này có trữ lượng lớn vềnhiên liệu hoá thạch, là nhà cung cấp khí đốt lớn đồng thời có trữ lượng dầu mỏ được chứng minh lớn thứ 4 trên thế giới,[19][36] do vậy, Iran có ảnh hưởng đáng kể đến an ninh năng lượng quốc tế và kinh tế thế giới. Iran sở hữu nhiều di sản văn hoá phong phú, với22 di sản thế giới đượcUNESCO công nhận tính đến năm 2017, đứng thứ 3 tại châu Á.[37]

Từ nguyên

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Tranh cãi về tên gọi Iran
Thời xưa, những cái tên Ariana và Persis đã được sử dụng để miêu tả vùng, như được thể hiện trong bản đồ thế giới này củaEratosthenes (khoảng năm 200 TCN)

Ở thờiAchaemenidngười Ba Tư gọi đất nước của họ làPārsa, tên theotiếng Ba Tư cổ có nghĩa họ hàng củaCyrus Đại đế. ThờiSassanid, họ gọi nó làIran, có nghĩa "Vùng đất của những ngườiAryan". Người Hy Lạp gọi nước này làPersis; chuyển sang tiếng Latin thànhPersia, cái tên được sử dụng rộng rãi ở Phương Tây.[38][39][40]

Ở thời hiện đại, đã cósự tranh cãi về nguồn gốc các tên gọi của thực thể –IranPersia (Ba Tư). Ngày21 tháng 3 năm1935,Reza Shah Pahlavi đưa ra một nghị định yêu cầu các phái đoàn nước ngoài phải sử dụng thuật ngữIran trong các văn bản ngoại giao. Sau khi các học giả lên tiếng phản đối,Mohammad Reza Pahlavi thông báo năm 1959 rằng cả hai cái tên Persia (Ba Tư) và Iran đều có giá trị và có thể sử dụng thay thế lẫn nhau. CuộcCách mạng năm 1979 dẫn tới việc thành lập nhà nướcthần quyềnCộng hòa Hồi giáo Iran. Tuy nhiên,danh từ Persia vàtính từ Persian vẫn được sử dụng thường xuyên.

Hiện nay, tại xứ này người Ba Tư (Persia) chỉ chiếm khoảng 51% dân số. Danh từ Iran (tộc Âu Ấn) bao gồm người Ba Tư và thêm vài dân tộc khác nhưKurd, Baloch,... chỉ định được khoảng 70% dân số nên được nhiều người trong xứ thích dùng hơn.

Lịch sử

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Lịch sử Iran
Cương vực Đế quốc Achaemenes thời điểm cực thịnh, dưới triềuDarius IXerxes I

Iran đã là nơi sinh sống củacon người từ thờitiền sử và những khám phá gần đây bắt đầu cho thấy những dấu tích về các nền văn hóa thời kỳ sớm ở Iran, hàng thế kỷ trước khi những nền văn minh sớm nhất bắt đầu xuất hiện ở gầnLưỡng Hà.[41] Sử ghi chép của Ba Tư (Iran) bắt đầu từ khoảng năm 3200 TCN ở nền văn minhTiền-Elamite và tiếp tục với sự xuất hiện của ngườiAryan và sự thành lậpTriều đại Medes, tiếp đó làĐế chế Achaemenid năm 546 TCN.Alexandros Đại đế đã chinh phạt Ba Tư năm 331 TCN, hai triều đại tiếp sauParthiaSassanid cùng vớiAchaemenid là những Đế chế tiền Hồi giáo vĩ đại nhất của Ba Tư.

Sau cuộcchinh phục Ba Tư của Hồi giáo, nước này trở thành trung tâmThời đại Hoàng kim Hồi giáo, đặc biệt ở thế kỷ thứ IX và thế kỷ thứ XI.Thời kỳ Trung Đại là thời gian diễn ra nhiều sự kiện lớn trong vùng. Từ năm 1220, Ba Tư bịĐế quốc Mông Cổ dưới quyềnThành Cát Tư Hãn, tiếp đó làTimur xâm chiếm. Quốc giaHồi giáo Shi'a Ba Tư đầu tiên được thành lập năm 1501 dướiTriều đại Safavid. Ba Tư dần trở thành nơi tranh giành của các cường quốc thuộc địa nhưĐế quốc NgaĐế chế Anh.

Thế kỷ 20

[sửa |sửa mã nguồn]

Cùng với sự trỗi dậy củachủ nghĩa cộng sản và quá trìnhhiện đại hoá ở cuối thế kỷ XIX, mong ước thay đổi dẫn tới cuộcCách mạng Hiến pháp Ba Tư năm 1905–1911. Năm 1921,Reza Shah Pahlavi tiến hành một cuộcđảo chính lật đổTriều đình Qajar. Là người ủng hộ hiện đại hoá, Reza Shah đưa ra các kế hoạch phát triểncông nghiệp, xây dựngđường sắt, và thành lập một hệ thốnggiáo dục quốc gia, nhưng sự cầm quyền độc tài của ông khiến nhiều người Iran bất mãn.

TrongChiến tranh thế giới thứ hai,Anh và Liên Xô xâm chiếm Iran từ 25 tháng 8 đến 17 tháng 9 năm 1941, chủ yếu để bảo vệ các giếng dầu của Iran và hành lang hậu cần của họ.Khối Đồng Minh buộc Shah phải nhường ngôi cho con trai,Mohammad Reza Pahlavi, người họ hy vọng sẽ ủng hộ phe Đồng Minh hơn. Năm 1953, sau vụquốc hữu hóaCông ty dầu mỏ Anh-Iran,Thủ tướngMohammed Mossadegh tìm cách thuyết phục Shah rời khỏi Iran. Shah từ chối và cách chức vị Mossadegh nhưng không chấp nhận rời bỏ chức vụ, và khi ông ta rõ ràng bộc lộ ý định chiến đấu, Shah buộc phải sử dụng tới kế hoạch mà Anh/Mỹ đã trù tính trước cho ông, đôi khi kế hoạch cũng được gọi là "Chiến dịch Ajax", bay tới Baghdad rồi từ đó sang Rome, Italy.

Mohammad Reza Pahlavi và Hoàng thất trong lễ đăng quangShah Iran vào năm 1967.

Nhiều vụ phản kháng đông đảo nổ ra khắp nước. Những người ủng hộ và phản đối chế độ quân chủ đụng độ với nhau trên đường phố, khiến 300 người thiệt mạng. Quân đội can thiệp, xe tăng của những sư đoàn ủng hộ Shah bắn vào thủ đô và máy bay ném bom vào dinh Thủ tướng. Mossadegh đầu hàng và bị bắt ngày 19 tháng 8 năm 1953. Mossadegh bị xét xử tội phản quốc và bị kết án ba năm tù.

Triều đình Shah được tái lập, quyền lực được Anh và Mỹ trao vào tay ShahMohammad Reza Pahlavi. Ông này ngày càng trở nênđộc tài, đặc biệt vào cuối thập kỷ 1970. Với sự ủng hộ mạnh mẽ từ phía Anh và Mỹ, triều đình Shah từ chối tiếp tục hiện đại hóa các ngành công nghiệp Iran, nhưng lại đàn áp phe đối lập trong tầng lớp tăng lữHồi giáo Shia và những người ủng hộ dân chủ.

Cách mạng Hồi giáo

[sửa |sửa mã nguồn]

Thập niên 1970,Ruhollah Khomeini chiếm được cảm tình của đa số dân Iran. Những người Hồi giáo, cộng sản và những người theo chủ nghĩa tự do tiến hành cuộcCách mạng Hồi giáo năm 1979, triều đình Shah bỏ chạy khỏi đất nước, sau đó Khomeini lên nắm quyền lực. Cuộctrưng cầu ý dân vào tháng 3 năm 1979 thành lập một nhà nước cộng hòa Hồi giáo theoluật Hồi giáo và hiến pháp mới được ban hành trongcuộc trưng cầu ý dân vào tháng 12 năm 1979. Chính phủ đả kích phương Tây, nhất là Hoa Kỳ vì đã ủng hộShah. Quan hệ với phương Tây trở nên đặc biệt căng thẳng sau khi các sinh viên Iranbắt giữ các nhân viên Đại sứ quán Mỹ. Sau này, Iran tìm cách xuất khẩu cuộc cách mạng ra nước ngoài, ủng hộ các nhóm quân sự chống phương Tây như nhómHezbollahLiban. Từ năm 1980 đến năm 1988, Iran vàIraq lao vào một cuộc chiến đẫm máuChiến tranh Iran - Iraq.

Ngày nay cuộc đấu tranh giữa những người theo đường lối cải cách và bảo thủ vẫn đang diễn ra thông qua các cuộc bầu cử chính trị, và là vấn đề trung tâm trong cuộc bầu cử tổng thống Iran 2005, kết quảMahmoud Ahmadinejad thắng cử. Kết quả bầu cử đã bị tranh cãi rộng rãi, và dẫn đến các cuộc biểu tình rộng khắp, cả ở Iran và các thành phố lớn bên ngoài đất nước, tạo ra Cách mạng Xanh Iran.

Hassan Rouhani được bầu làm tổng thống vào ngày 15 tháng 6 năm 2013, sau khi đánh bại Mohammad Bagher Ghalibaf và bốn ứng cử viên khác. Chiến thắng của Rouhani đã cải thiện tương đối mối quan hệ của Iran với các quốc gia khác trong khu vực.

Một loạt các cuộc biểu tình xảy ra trên khắp Iran trong suốt hai năm 2017 và 2018. Ban đầu, các cuộc biểu tình được tổ chức nhằm phản đối giá cả sinh hoạt đắt đỏ, nhưng sau đó đã phát triển thành nhiều yêu cầu chính trị sâu rộng. Một số nhà phân tích cho rằng tình hình kinh tế vô cùng khó khăn là nguyên nhân thực sự của các cuộc biểu tình. Một số người khác khẳng định sự không hài lòng với nền độc tài thần quyền của Cộng hòa Hồi giáo Iran và mưu cầu về một nền dân chủ là nguyên nhân của tình trạng bất ổn.

Tháng 12 năm 2019, một loạt các cuộc biểu tình dân sự xảy ra ở nhiều thành phố trên khắp Iran, nhưng sau đó đã mở rộng để phản đốichế độ hiện tại ở IranLãnh Tụ Tối caoAli Khamenei.[42][43] Các cuộc biểu tình bắt đầu vào tối ngày 15 tháng 11 và trong vòng vài giờ đã lan đến 21 thành phố khi các video về cuộc biểu tình bắt đầu lan truyền trên mạng.[44][45][46] Hình ảnh về các cuộc biểu tình bạo lực đã được chia sẻ trên internet với các cuộc biểu tình đạt đến cấp độ quốc tế.[47] Để ngăn chặn việc chia sẻ thông tin liên quan đến các cuộc biểu tình và cái chết của hàng trăm người biểu tình trên các nền tảng truyền thông xã hội, chính phủ đã chặn Internet trên toàn quốc, dẫn đến mất hoàn toàn kết nối Internet gần như toàn bộ khoảng sáu ngày.[48][49] Dựa trên tường thuật của Tổ chức Ân xá Quốc tế vàĐài phát thanh Farda, loạt cuộc biểu tình này có thể là bạo lực và nghiêm trọng nhất kể từCách mạng Iran năm 1979.[50]Chính phủ đã giết hại khoảng 1.500 công dân Iran tham gia cuộc biểu tình.[51][52][53][54] Cuộc đàn áp của chính phủ đã gây ra phản ứng dữ dội từ những người biểu tình, họ đáp trả bằng việc phá hủy 731 ngân hàng chính phủ bao gồm ngân hàng trung ương Iran, các giáo đường Hồi giáo, xé các bảng quảng cáo chống Mỹ, và áp phích và tượng của Lãnh tụ Tối cao Ali Khamenei. 50 căn cứ quân sự của chính phủ cũng bị người biểu tình tấn công.

Thành phố Piranshahr là nền văn minh lâu đời nhất của Iran với lịch sử 8000 năm.[55][56][57][58]

Địa lý

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Địa lý Iran
Núi Damavand là núi cao nhất tại Iran

Iran có chung biên giới vớiAzerbaijan (chiều dài: 432 km / 268 dặm) vàArmenia (35 km / 22 dặm) ở phía tây bắc, vớiBiển Caspia ở phía bắc,Turkmenistan (992 km / 616 dặm) ở phía đông bắc,Pakistan (909 km / 565 dặm) vàAfghanistan (936 km / 582 dặm) ở phía đông,Thổ Nhĩ Kỳ (499 km / 310 dặm) vàIraq (1.458 km / 906 dặm) ở phía tây, và cuối cùng giáp vớiVịnh Péc xíchVịnh Oman ở phía nam. Diện tích lãnh thổ Iran 1.648.000km² ≈ 636.300dặm vuông (Đất liền: 1.636.000 km² ≈631.663 mi², Nước: 12.000 km² ≈ 4.633 mi²), gần tương đươngAlaska.

Lãnh thổ Iran phần lớn là cácdãy núi lởm chởm chia tách cáclưu vựccao nguyên. Khu vực đông dân cư ở phía tây cũng là vùng nhiều đồi núi nhất với các dãyCaucasus,Zagros và NúiAlborz—trên núi Alborz có điểm cao nhất Iran,Chỏm Damavand cao 5.604m (18.386ft). Vùng phía đông phần lớn là các lưu vựcsa mạc không có người ở như vùng nhiễm mặnDasht-e Kavir, và một sốhồ muối.

Nhữngđồng bằng lớn duy nhất nằm dọc theoBiển Caspia và phía bắcVịnh Ba Tư, nơi biên giới Iran chạy tới cửa sôngArvand (Shatt al-Arab). Những đồng bằng nhỏ, đứt quãng nằm dọc theo phần bờ biển còn lại của Vịnh Péc xích,Eo HormuzBiển Oman.

Khí hậu

[sửa |sửa mã nguồn]
Phân loại khí hậu Köppen của Iran

Khí hậu Iran phần lớnkhô cằn haybán khô cằn cho tớicận nhiệt đới ở dọc bờ biển Caspia. Ở rìa phía bắc đất nước (đồng bằng ven biển Caspia) nhiệt độ hầu như ở dưới không và khí hậu ẩm ướt quanh năm. Nhiệt độ mùa hè hiếm khi vượt quá 29°C (84°F). Lượng mưa hàng năm đạt 680mm (26in) ở vùng phía đông đồng bằng và hơn 1.700 mm (75 in) ở phía tây. Về phía tây, những khu dân cư tại các lưu vực núi Zagros thường có nhiệt độ thấp, khí hậu khắc nghiệt, tuyết rơi dày. Các lưu vực phía đông và trung tâm cũng có khí hậu khô cằn, lượng mưa chưa tới 200 mm (8 in) và có xen kẽ các sa mạc. Nhiệt độ trung bình mùa hè vượt quá 38 °C (100 °F). Các đồng bằng ven biển Vịnh Péc xích và Vịnh Oman ở phía nam Iran có mùa đông dịu, mùa hè rất nóng và ẩm. Lượng mưa hàng năm từ 135 đến 355 mm (6 to 14 in).

Chính trị

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Chính trị IranHệ thống tòa án Iran

Hành pháp

[sửa |sửa mã nguồn]

Hệ thống chính trị nướcCộng hòa Hồi giáo dựa trênHiến pháp năm 1979. Hệ thống gồm nhiều kết nối phức tạp giữa các cơ quan chính phủ, đa số lãnh đạo đều do chỉ định. Chế độ ở Iran là chế độ phi dân chủ,[59][60] thường xuyên đàn áp và bắt bớ những người chỉ trích chính phủ cũng như chỉ trích lãnh đạo tối cao, và hạn chế nghiêm ngặt sự tham gia của các ứng cử viên trong các cuộc bầu cử phổ biến cũng như các hình thức hoạt động chính trị khác. Quyền phụ nữ ở Iran được mô tả là vô cùng tồi tệ.[61][62], và quyền trẻ em đã bị vi phạm nghiêm trọng, với nhiều tội phạm trẻ em bị xử tử ở Iran hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới.[63][64] Hoạt động tình dục giữa những người đồng giới là bất hợp pháp và bị trừng phạt đến chết.[65][66] Từ những năm 2000, chương trình hạt nhân gây tranh cãi của Iran đã gây lo ngại, đây là lý do dẫn đến các lệnh trừng phạt quốc tế đối với nước này.

Lãnh tụ tối cao Iran chịu trách nhiệmphác họa và giám sát "các chính sách chung của Nhà nước Cộng hòa Hồi giáo Iran". Lãnh tụ tối cao làTổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, kiểm soát tình báo quân đội và các hoạt động an ninh; và có độc quyền tuyên chiến. Các lãnh đạo tư pháp, mạng lưới phát thanh, truyền hình trong nước, chỉ huy cảnh sát và các lực lượng quân đội cùng sáu trong số 12 thành viênHội đồng bảo hiến được Lãnh tụ tối cao bổ nhiệm.Hội đồng Chuyên gia bầu và bãi nhiệm Lãnh tụ tối cao dựa trên cơ sở đánh giá và sự quý trọng của nhân dân.[67] Hội đồng Chuyên gia chịu trách nhiệm giám sát Lãnh tụ tối cao thi hành các trách nhiệm theo pháp luật.

Hiến pháp quy địnhTổng thống là người nắm quyền cao nhất quốc gia sau Lãnh tụ tối cao. Tổng thống được bầu theophổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ bốn năm. Ứng cử viên tổng thống phải đượcHội đồng bảo hiến phê chuẩn. Tổng thống chịu trách nhiệm thi hành Hiến pháp và thực hiện các quyền hành pháp, trừ những việc liên quan trực tiếp tới Lãnh tụ tối cao. Tổng thống chỉ định và giám sátHội đồng Bộ trưởng, phối hợp các quyết định của chính phủ, và lựa chọn các chính sách chính phủ để đưa ra trước Quốc hội. Tám phó tổng thống và nội các gồm 21 bộ trưởng phục vụ dưới quyền Tổng thống, tất cả các viên chức này đều phải được Quốc hội thông qua. Khác với những quốc gia khác, Quốc hội ở Iran không quản lý các lực lượng vũ trang. Dù Tổng thống chỉ định Bộ trưởng Tình báo và Quốc phòng, thông thường Tổng thống phải tham khảo ý kiến của Lãnh tụ tối cao trước khi đưa ra quyết định lựa chọn hai chức vụ đó để Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm.

Nhánh lập pháp Iran chỉ cómột việnHội đồng Hiệp thương Hồi giáo, gồm 290 thành viên được bầu với nhiệm kỳ bốn năm. Hội đồng Hiệp thương Hồi giáo chịu trách nhiệmlàm luật, phê chuẩnhiệp ước quốc tế, và thông qua ngân sách nhà nước. Ứng cử viên và thành viên Hội đồng Hiệp thương Hồi giáo đều phải đượcHội đồng bảo hiến Iran phê duyệt.

Lãnh tụ tối cao chỉ định người đứng đầu nhánh tư pháp, và người này lại chỉ định ra lãnh đạo các Tòa án tối cao và các trưởng công tố. Iran có nhiều kiểu tòa án, gồm cả các tòa công chúng để xử các vụ dân sự và tội phạm, các "tòa án cách mạng" xử một số loại hành vi, như tội chống lạian ninh quốc gia. Các quyết định của tòa án cách mạng là tối cao và không thể được tái thẩm. Tòa án Tăng lữ Đặc biệt xử lý các vụ tội phạm được cho là do cáctăng lữ thực hiện, dù nó cũng xử cả các vụ liên quan tớingười thế tục. Các chức năng của Tòa án Tăng lữ Đặc biệt độc lập với cơ cấu tòa án thông thường và chỉ tuân theo Lãnh tụ tối cao. Những phán xử của tòa này là tối cao và không được tái thẩm.

Các hội đồng

[sửa |sửa mã nguồn]

Hội đồng bảo hiến gồm 12 thành viên, sáu thành viên do Lãnh tụ Tối cao bổ nhiệm, sáu thành viên doQuốc hội bầu ra trong số luật gia do Bộ trưởng tư pháp đề cử (cũng do Lãnh tụ tối cao chỉ định). Hội đồng bảo hiến có trách nhiệm giải thích hiến pháp và có thểphủ quyết luật được Quốc hội thông qua. Nếu luật pháp không phù hợp vớihiến pháp haySharia, nó sẽ được trao lại cho Quốc hội sửa đổi. Trong một lần thi hành quyền lực của mình, Hội đồng đã gây tranh cãi khi căn cứ trên một cách hiểu hẹp của hiến pháp Iran, phủ quyết các ứng cử viên Quốc hội.

Hội đồng chuyên gia họp một tuần mỗi năm, gồm 86 tăng lữ "đạo đức và thông thái" được bầu bởi những cá nhân trưởng thành có quyền bầu cử với nhiệm kỳ tám năm. Tương tự như các cuộc bầu cử tổng thống và Quốc hội,Hội đồng bảo hiến là cơ quan xác nhận tư cách của ứng cử viên vào Hội đồng chuyên gia. Hội đồng chuyên gia bầu ra Lãnh tụ tối cao và có quyền theo hiến pháp cách chức Lãnh tụ tối cao ở bất kỳ thời điểm nào. Tuy nhiên, Hội đồng này chưa từng phản đối bất kỳ một quyết định nào của Lãnh tụ tối cao.

Hội đồng xác định lợi ích quốc gia có quyền giải quyết tranh chấp giữa Quốc hội và Hội đồng bảo hiến và cũng là một cơ quan tư vấn của Lãnh tụ tối cao, biến nó trở thành một trong những cơ quan nắm nhiều quyền lực chính phủ nhất trong nước.

Các hội đồng địa phương được bầu theo kiểu phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 4 năm tại mọi thành phố và làng mạc ở Iran. Theo điều 7, Hiến pháp Iran, các hội đồng địa phương đó cùng với Quốc hội là những "tổ chức đưa ra quyết định và hành chính của quốc gia". Đoạn này của hiến pháp không được áp dụng cho tới tận năm 1999 khi các cuộc bầu cử hội đồng địa phương đầu tiên được tổ chức trên khắp đất nước. Các hội đồng có nhiều trách nhiệm, gồm bầu cử thị trưởng, giám sát các hoạt động tại khu vực; nghiên cứu xã hội, văn hoá, giáo dục, sức khoẻ, kinh tế và những yêu cầu chăm sóc xã hội bên trong khu vực của mình; đặt kế hoạch và phối hợp hành động với quốc gia trong việc thi hành các chương trình xã hội, kinh tế, xây dựng, văn hoá, giáo dục và các chương trình an sinh khác.

Phân cấp hành chính

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Phân cấp hành chính Iran

Iran được chia thànhnăm khu vực với31 tỉnh (Ostān), mỗi tỉnh được cai quản bởi một tỉnh trưởng được chỉ định (Ostāndār). Các tỉnh được chia thànhcác hạt (šahrestān), các quận (baxš) và các tiểu huyện (dehestā).

Tỉnh của Iran

Quan hệ đối ngoại

[sửa |sửa mã nguồn]
Quan hệ ngoại giao của Iran

Iran có quan hệ ngoại giao với165 quốc gia. Sau năm 1979, Iran cắt đứt quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ vàIsrael.[68]

Kinh tế

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Kinh tế Iran
Tehran là trung tâm kinh tế của Iran, nắm giữ 45% các ngành công nghiệp của đất nước.

Kinh tế Iran là sự hoà trộn giữatập trung hoá kế hoạch,quyền sở hữu nhà nước với các công tydầu mỏ và các doanh nghiệp lớn,nông nghiệp làng xã, và các công tythương mại, dịch vụ tư nhân nhỏ. Tính đến năm 2016, tổng sản phẩm nội địa của Iran đạt 412.304 USD (đứng thứ 27 thế giới, đứng thứ 8 châu Á và đứng thứ 2Trung Đông sauẢ Rập Xê Út). Iran được Ngân hàng Thế giới xếp hạng là nền kinh tế có thu nhập trung bình cao.[69] Vào đầu thế kỷ 21, khu vực dịch vụ đóng góp tỷ lệ lớn nhất trong GDP, tiếp theo là công nghiệp (khai thác và sản xuất) và nông nghiệp.[70]

Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Hồi giáo Iran chịu trách nhiệm cho việc phát triển và duy trì đồng Rial Iran, đồng tiền chính thức của đất nước. Chính phủ không công nhận các công đoàn khác ngoài các hội đồng lao động Hồi giáo, vốn phải được sự chấp thuận của chủ lao động và các dịch vụ an ninh. Mức lương tối thiểu trong tháng 6 năm 2013 là 487 triệu rial một tháng ($ 134).[71] Thất nghiệp vẫn ở mức trên 10% kể từ năm 1997 và tỷ lệ thất nghiệp của phụ nữ gần gấp đôi so với nam giới.[71]

Chính quyền hiện tại tiếp tục theo đuổi các kế hoạch cải cách thị trường của chính phủ tiền nhiệm và đã thông báo rằng họ sẽ thay đổi nền kinh tế dựa nhiều vào dầu mỏ của Iran. Chính quyền đang tìm cách thực hiện mục tiêu trên thông qua việcđầu tư các khoản lợi nhuận vào các lĩnh vực nhưsản xuấtô tô, công nghiệphàng không vũ trụ, hàngđiện tử tiêu dùng,hoá dầucông nghệ hạt nhân. Iran cũng hy vọng thu hút được hàng tỷ dollarđầu tư nước ngoài bằng cách tạo ra một môi trường đầu tư dễ chịu hơn, như giảm các quy định hạn chế và thuế nhập khẩu, thiết lập các vùng thương mại tự do nhưChabahar và đảoKish. Nước Iran hiện đại có mộttầng lớp trung lưu mạnh và một nền kinh tế tăng trường nhưng vẫn tiếp tục phải đương đầu với tình trạnglạm phátthất nghiệp ở mức cao.

Thâm hụt ngân sách Iran từng là một vấn đề kinh niên, một phần vì những khoản trợ cấp to lớn của nhà nước – tổng cộng lên tới 7.25 tỷ dollar một năm–gồmthực phẩm và đặc biệt làxăng dầu. Iran là nước sản xuất dầu lớn thứ hai trongOPEC, mỗi ngày nước này xuất khẩu từ bốn đến năm triệubarrels dầu mỏ, Iran chiếm 10% lượng dữ trự dầu đã được xác nhận trên thế giới. Iran cũng là nước có trữ lượngkhí tự nhiên thứ hai thế giới (sauNga). Thị trường dầu mỏ phát triển mạnh năm 1996 giúp nước này giải toả bớt sức ép tài chính và cho phép Tehran kịp chi trả các khoản nợ.

Lĩnh vực dịch vụ đã có sự tăng trưởng lâu dài lớn nhất theo tỷ lệ đóng góp vào GDP, nhưng vẫn còn chưa vững chắc. Đầu tư nhà nước đã giúpnông nghiệp phát triển mạnh với việctự do hoá sản xuất và cải thiện đóng gói cũng như tiếp cận thị trường giúp phát triển các thị trường xuất khẩu mới. Các dự ántưới tiêu lớn, và các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu mới nhưchà là,hoaquả hồ trăn, khiến lĩnh vực này có được sự tăng trưởng cao nhất so với toàn bộ nền kinh tế trong phần lớn thời gian thập niên 1990. Dù trải qua nhiều năm hạn hán liên tiếp: 1998, 1999, 2000 và 2001 khiến sản lượng giảm mạnh,nông nghiệp vẫn là một trong những khu vực sử dụng nhiều lao động nhất, chiếm 22% nguồn nhân lực theo cuộc điều tra năm 1991. Iran cũng đa phát triểncông nghệ sinh học,công nghệ nano, và công nghiệpdược phẩm. Về năng lượng, nước này hiện đang dựa vào các phương pháp quy ước, nhưng tới tháng 3 năm 2006, việc tinh chế uranium - chướng ngại lớn cuối cùng trên con đường phát triển năng lượng hạt nhân — đã diễn ra.

Các đối tác thương mại chính của Iran làPháp,Đức,Ý,Nga,Trung Quốc,Nhật BảnHàn Quốc. Từ cuối thập kỷ 1990, Iran đã tăng cường hợp tác kinh tế với các nước đang phát triển khác nhưSyria,Ấn Độ,Cuba,VenezuelaNam Phi. Iran hiện đang mở rộng quan hệ thương mại vớiThổ Nhĩ KỳPakistan và cùng có chung mục đích thiết lập một thị trường kinh tế duy nhất ở Tây vàTrung Á với các đối tác.

Các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Iran, như lệnh cấm vận đối với dầu thô của Iran, đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước này. Những biện pháp trừng phạt này đã dẫn đến sự sụt giảm mạnh về giá trị của đồng rial và tính đến tháng 4 năm 2013, một đô la Mỹ trị giá 26.000 rial, so với 16.000 vào đầu năm 2012.[72]

Nhân khẩu

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Dân cư Iran

Dân số Iran đã tăng trưởng mạnh trong nửa cuối thế kỷ XX, đạt tới khoảng 81 triệu người vào năm 2018. Trong những năm gần đây, có vẻ chính phủ Iran đã đưa ra các biện pháp kiểm soát mức độ tăng dân số cao và nhiều cuộc nghiên cứu đã cho thấy rằng tỷ lệ tăng dân số của Iran chỉ có thể giảm sau khi đạt tới mức sinh thay thế và ổn định vào năm 2050 (100 triệu người).[73][74][75]

Cộng đồng Do Thái ở Iran được ước tính hơn ba triệu người, đa số họ đã di cư sangBắc Mỹ,Tây Âu, vàNam Mỹ, sau cuộcCách mạng Iran. Iran cũng có số lượngngười tị nạn đông nhất thế giới, với hơn một triệu người, đa số từAfghanistanIraq. Chính sách chính thức của chính phủ và các nhân tố xã hội muốntái hồi cư số người này.[76][77][78]

Đô thị hóa

[sửa |sửa mã nguồn]

Iran là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng đô thị cao nhất thế giới. Từ năm 1950 đến 2002, tỷ lệ dân số thành thị tăng từ 27% lên 60%.  Liên Hợp Quốc dự đoán đến năm 2030, 80% dân số sẽ là dân thành thị. Hầu hết những người di cư đã định cư xung quanh các thành phốTehran,Isfahan,AhvazQom

Tehran, với dân số khoảng 8,8 triệu người (điều tra dân số năm 2016), là thủ đô và thành phố lớn nhất của Iran. Đây là một trung tâm kinh tế và văn hóa, và là trung tâmthông tin liên lạcgiao thông của cả nước.

Mashhad, thành phố đông dân thứ hai của đất nước, với khoảng 3,3 triệu người (điều tra dân số năm 2016) và là thủ phủ của tỉnhRazavi Khorasan.Đền Imam Reza tọa lạc tại thành phố này, đây là một thánh địa linh thiêng trongHồi giáo Shia. Khoảng 15 đến 20 triệu người hành hương viếng thăm đền thờ mỗi năm.

Isfahan có dân số khoảng 2,2 triệu người (điều tra dân số năm 2016) và là thành phố đông dân thứ ba của Iran. Đây là thủ phủ của tỉnhIsfahan, và cũng là thủ đô thứ ba củaĐế chế Safavid. Đây là nơi có nhiều di tích lịch sử, bao gồmQuảng trường Shah nổi tiếng,Siosepol và các nhà thờ tại phốJolfâ-ye của người Armenia. Đây cũng là nơi cótrung tâm mua sắm lớn thứ bảy thế giới,Trung tâm thành phố Isfahan.

Thành phố đông dân thứ tư của Iran,Karaj, có dân số khoảng 1,9 triệu người (điều tra dân số năm 2016). Đây là thủ phủ của tỉnhAlborz, và nằm cách Teheran 20 km về phía tây, dưới chândãy núiAlborz. Là một thành phố công nghiệp lớn ở Iran, với các nhà máy lớn sản xuất đường, dệt, may và rượu.

Với dân số khoảng 1,7 triệu người (điều tra dân số năm 2016),Tabriz là thành phố đông dân thứ năm của Iran và là nơi đông dân thứ hai cho đến cuối những năm 1960. Đây là thủ đô đầu tiên của Đế chế Safavid và hiện là thủ phủ của tỉnhĐông Azerbaijan. Nó cũng được coi là thành phố công nghiệp lớn thứ hai của đất nước (sau Tehran).

Shiraz, với dân số khoảng 1,8 triệu người (điều tra dân số năm 2016), là thành phố đông dân thứ sáu của Iran. Đây là thủ phủ của tỉnhFars, và cũng là thủ đô của Iran dưới triều đại của vương triềuZand. Nó nằm gần tàn tíchPersepolisPasargadae, hai trong số bốn thủ đô củaĐế chế Achaemenid.

20 cities or towns lớn nhất tại Iran
2016

Ngôn ngữ

[sửa |sửa mã nguồn]

Đa số dân chúng sử dụng một trongnhững ngôn ngữ Iran, gồm ngôn ngữ chính thức,tiếng Ba Tư. Trong khi về số lượng, tỷ lệ và cách định nghĩa các dân tộc khác nhau ở Iran hiện vẫn còn đang gây tranh cãi, các nhómsắc tộc chính vàthiểu số gồmngười Ba Tư (51%),Azeris (24%),Gilaki và Mazandarani (8%),Kurds (7%),Ả rập (3%),Baluchi (2%),Lurs (2%),Turkmens (2%),Qashqai,Armenia,Ba Tư Do Thái,Gruzia,người Assyri,Circassia,Tats,Pashtuns và các nhóm khác (1%).[79] Số lượng người sử dụng tiếng Ba Tư là tiếng mẹ đẻ tại Iran được ước tính khoảng 40 triệu.[80] Phương tiện truyền thông đại chúng, hệ thống giáo dục và việc di cư tới các thành phố lớn khiến đa số dân Iran nói và hiểu được tiếng Ba Tư. Iran có tỷ lệ biết đọc viết là 79.4%.

Tôn giáo

[sửa |sửa mã nguồn]

Tôn giáo tại Iran (2011)[81]

  Hồi giáo (99.4%)
  Khác (0.6%)

Đa số dân Iran là người Hồi giáo; 90% thuộc nhánhShi'a củaĐạo Hồi, tôn giáo chính thức của quốc gia và khoảng 9% thuộc nhánhSunni (đa số họ là người Kurds), đồng thời Iran cũng là quốc gia có số dân theo đạo Hồi đông nhất Trung Đông. Số còn lại là thiểu số theo các tôn giáo phi Hồi giáo, chủ yếu làBahá'ís,Mandeans,Hỏa giáo,Do Thái giáoThiên chúa giáo. Ba nhómthiểu số tôn giáo cuối cùng ở trên được công nhận và bảo vệ, và được dành riêng ghế bên trongMajles (Quốc hội). Trái lại,Đức tin Bahá'í, thiểu số tôn giáo lớn nhất ở Iran, không được chính thức công nhân, và từng bị đàn áp trong thời gian tồn tại ở Iran. Từ cuộc cách mạng năm 1979 những vụ đàn áp và hành quyết ngày càng tăng. Những vụđàn áp Bahá'ís gần đây khiếnCao uỷ nhân quyền Liên hiệp quốc phải đề cập trong bản báo cáo ngày20 tháng 3 năm2006 rằng "những hành độngđàn áp tôn giáo ngày càng tăng gần đây cho thấy tình hình đối xử với các thiểu số tôn giáo ở Iran, trên thực tế, đang xấu đi."[82]

Văn hoá

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Văn hoá Iran

Iran có một lịch sửnghệ thuật,âm nhạc,kiến trúc,thi ca,triết học,truyền thống, vàhệ tư tưởng dài lâu.

Văn học Ba Tư được các học giả Ba Tư cũng như nước ngoài đánh giá rất cao.Ngôn ngữ Ba Tư đã được sử dụng trong hơn 2.500 năm và để lại những dấu ấn rõ rệt trong ngôn ngữ viết. Thơ ca Iran được cả thế giới chú ý vì những dòng thơ và bài ca tuyệt đẹp với các nhà thơ nhưHafez,Rumi,Omar Khayyam, vàFirdowsi.

Với 300 giải thưởng quốc tế trong hai nhăm năm qua, các bộ phim Iran tiếp tục được đón nhận trên khắp thế giới. Có lẽ đạo diễn nổi tiếng nhất làAbbas Kiarostami. Toàn bộ các phương tiện truyền thông ở Iran đều bị kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp từ nhà nước và phải đượcBộ hướng dẫn Hồi giáo cho phép. Trong số này gồm cảInternet, đang ngày càng trở thành phương tiện tiếp cận thông tin và thể hiện bản thân phổ biến nhất của giới trẻ. Iran là nước có số lượngbloggers đứng thứ tư thế giới.

Sự tìm kiếmcông bằng xã hội và sự công bằng là một đặc điểm quan trọng trong văn hoá Iran. Sự tôn trọng người già và sự hiếu khách cũng là một phần không thể thiếu trongphép xã giao Iran.

Năm mới của Iran (Norouz) diễn ra ngày21 tháng 3, ngày đầu tiên củamùa xuân. Norouz đượcUNESCO liệt vào danh sáchCác di sản truyền khẩu và phi vật thể Nhân loại năm 2004.[83]

Trong cuốn sách,New Food of Life của mình, Najmieh Batmanglij đã viết rằng"thức ăn ở Iran có nhiều điểm chung với văn hoá ẩm thực vùngTrung Đông, nhưng thường được coi là tinh vi và sáng tạo nhất trong số đó, nhiều màu sắc và phức tạp như mộttấm thảm Ba Tư."

Ngành dệt thảm của Iran có nguồn gốc từ thời đại đồ đồng, và là một trong những biểu hiện nổi bật nhất của nghệ thuật Iran. Iran là nhà sản xuất và xuất khẩu thảm thủ công lớn nhất thế giới, sản xuất 3/4 tổng sản lượng thảm của thế giới và chiếm 30% thị phần xuất khẩu của thế giới[84][85]

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Jeroen Temperman (2010).State-Religion Relationships and Human Rights Law: Towards a Right to Religiously Neutral Governance. Brill. tr. 87–.ISBN 978-90-04-18148-9.The official motto of Iran isTakbir ("God is the Greatest" or "God is Great"). TransliterationAllahu Akbar. As referred to in art. 18 of the constitution of Iran (1979). Thede facto motto however is: "Independence, freedom, the Islamic Republic."
  2. ^ab"The World Factbook – Iran".Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2008.
  3. ^Vatanka, Alex (ngày 30 tháng 4 năm 2015)."The Authoritarian Resurgence: Iran Abroad".Middle East Institute (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2018.
  4. ^Fisher, Max."How Iran Became an Undemocratic Democracy".The New York Times (bằng tiếng Anh). Số ngày 17 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2018.
  5. ^"The Big Five Countries – Iran".www.resurgentdictatorship.org. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2018.
  6. ^Buchta, Wilfried."Taking Stock of a Quarter Century of the Islamic Republic of Iran"(PDF).Harvard Law School. Harvard Law School.Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2015.[...] the Islamic Republic's political system, a theocratic-republican hybrid [...]
  7. ^نقد-روزنامه-شرق-بر-سخنان-هاشمی-شاهرودی-مجمع-تشخیص-معادل-مجلس (bằng tiếng Ba Tư). ngày 10 tháng 2 năm 2018.
  8. ^Sarkhosh Curtis, Vesta; Stewart, Sarah (2005),Birth of the Persian Empire: The Idea of Iran, London: I.B. Tauris, tr. 108,ISBN 9781845110628,Similarly the collapse of Sassanian Eranshahr in AD 650 did not end Iranians' national idea. The name "Iran" disappeared from official records of the Saffarids, Samanids, Buyids, Saljuqs and their successor. But one unofficially used the name Iran, Eranshahr, and similar national designations, particularly Mamalek-e Iran or "Iranian lands", which exactly translated the old Avestan term Ariyanam Daihunam. On the other hand, when the Safavids (not Reza Shah, as is popularly assumed) revived a national state officially known as Iran, bureaucratic usage in the Ottoman empire and even Iran itself could still refer to it by other descriptive and traditional appellations.
  9. ^abAndrew J. Newman (ngày 21 tháng 4 năm 2006).Safavid Iran: Rebirth of a Persian Empire. I.B. Tauris.ISBN 978-1-86064-667-6. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2013.
  10. ^"Iran Population (2025)".Worldometer.
  11. ^abcd"World Economic Outlook Database, April 2025 Edition. (Iran)".Quỹ Tiền tệ Quốc tế. ngày 22 tháng 4 năm 2025. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2025.
  12. ^"Gini Index coefficient".The World Factbook.Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2024.
  13. ^"Human Development Report 2025"(PDF).Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc. ngày 6 tháng 5 năm 2025.Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2025.
  14. ^""CESWW" – Definition of Central Eurasia". Cesww.fas.harvard.edu.Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2010.
  15. ^"Iran Guide". National Geographic. ngày 14 tháng 6 năm 2013.Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2013.
  16. ^Lỗi chú thích: Thẻ<ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênIran.population
  17. ^"National Census Preliminary Results Released: Iran's Urban Population Up".Financial Tribune (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2017.
  18. ^"Iran's Strategy in the Strait of Hormuz". The Diplomat.Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  19. ^abCIA World Factbook."Iran".Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  20. ^Whatley, Christopher (2001).Bought and Sold for English Gold: The Union of 1707. Tuckwell Press.
  21. ^Lowell Barrington (tháng 1 năm 2012).Comparative Politics: Structures and Choices, 2nd ed.tr: Structures and Choices. Cengage Learning. tr. 121.ISBN 978-1-111-34193-0. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2013.
  22. ^Encyclopædia Britannica."Encyclopædia Britannica Encyclopedia Article: Media ancient region, Iran". Britannica.com. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.
  23. ^David Sacks; Oswyn Murray; Lisa R. Brody; Oswyn Murray; Lisa R. Brody (2005).Encyclopedia of the ancient Greek world. Infobase Publishing. tr. 256 (at the right portion of the page).ISBN 978-0-8160-5722-1. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2016.
  24. ^Stillman, Norman A. (1979).The Jews of Arab Lands. Jewish Publication Society. tr. 22.ISBN 0827611552.
  25. ^Jeffreys, Elizabeth; Haarer, Fiona K. (ngày 30 tháng 9 năm 2006).Proceedings of the 21st International Congress of Byzantine Studies: London, 21–26 August, 2006, Volume 1. Ashgate Publishing. tr. 29.ISBN 075465740X.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  26. ^Sarkhosh Curtis, Vesta; Stewart, Sarah (2005),Birth of the Persian Empire: The Idea of Iran, Luân Đôn: I.B. Tauris, tr. 108,Similarly the collapse of Sassanian Eranshahr in AD 650 did not end Iranians' national idea. The name "Iran" disappeared from official records of the Saffarids, Samanids, Buyids, Saljuqs and their successor. But one unofficially used the name Iran, Eranshahr, and similar national designations, particularly Mamalek-e Iran or "Iranian lands", which exactly translated the old Avestan term Ariyanam Daihunam. On the other hand, when the Safavids (not Reza Shah, as is popularly assumed) revived a national state officially known as Iran, bureaucratic usage in the Ottoman empire and even Iran itself could still refer to it by other descriptive and traditional appellations.{{Chú thích}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  27. ^Savory, R. M. "Safavids".Encyclopaedia of Islam (ấn bản thứ 2).
  28. ^Axworthy, Door Michael (2006).The Sword of Persia: Nader Shah, from Tribal Warrior to Conquering Tyrant. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2014.
  29. ^Fisher và đồng nghiệp 1991, tr. 329–330.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFFisherAveryHamblyMelville1991 (trợ giúp)
  30. ^Dowling, Timothy C. (ngày 2 tháng 12 năm 2014).Russia at War: From the Mongol Conquest to Afghanistan, Chechnya, and Beyond. ABC-CLIO. tr. 728–730.ISBN 1598849484.
  31. ^Cordesman, Anthony H. (1999).Iran's Military Forces in Transition: Conventional Threats and Weapons of Mass Destruction. tr. 22.
  32. ^"Iran".Encyclopædia Britannica. Encyclopædia Britannica. 2012. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2012.
  33. ^Hồng Hạnh (ngày 25 tháng 6 năm 2019)."Người Iran 'vỡ xương cốt' dưới áp lực trừng phạt của Mỹ".Báo điện tử VnExpress.
  34. ^The Committee Office, House of Commons."Select Committee on Foreign Affairs, Eighth Report, Iran". Publications.parliament.uk. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2011.
  35. ^"Iran @ 2000 and Beyond lecture series, opening address, W. Herbert Hunt, ngày 18 tháng 5 năm 2000". Wayback.archive.org.Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2013.
  36. ^"UPDATE 3-BP cuts global gas reserves estimate, mostly for Russia".Reuters.com. 2013.Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  37. ^"World Heritage List".UNESCO.
  38. ^American Heritage Dictionary (Fourth Edition), Bartleby.com.""Aryan"". Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  39. ^National Virtual Translation Center, Government of the U.S.A.""The Indo-Iranian Branch of the Indo-European Language Family"".Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  40. ^Department of Languages and Cultures of Asia, University of Wisconsin.""Iranian Languages"".Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  41. ^""Iranian Pottery"". University of Chicago Oriental Institute.Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2006.
  42. ^"گسترش اعتراض‌ها به افزایش قیمت بنزین: یک معترض در سیرجان با شلیک ماموران کشته شد".Iran International (bằng tiếng Ba Tư). ngày 15 tháng 11 năm 2019.Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.
  43. ^"Protests erupt over Iran petrol rationing" (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.
  44. ^"Amnesty International: Over 100 Killed in 21 Cities in Iran Protests". Haaretz.
  45. ^"Hikes in the cost of petrol are fuelling unrest in Iran".The Economist. ngày 17 tháng 11 năm 2019.
  46. ^"افزایش قیمت بنزین؛ شهرهای مختلف ایران صحنه اعتراضات شد".رادیو فردا.
  47. ^Fassihi, Farnaz (ngày 19 tháng 11 năm 2019)."Iran's 'Iron Fist': Rights Group Says More Than 100 Protesters Are Dead".The New York Times (bằng tiếng Anh).ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2019.
  48. ^"Internet disrupted in Iran amid fuel protests in multiple cities - NetBlocks". NetBlocks. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2019.
  49. ^NetBlocks.org (ngày 23 tháng 11 năm 2019)."Confirmed: Internet access is being restored in #Iran after a weeklong internet shutdown amid widespread protests; real-time network data show national connectivity now up to 64% of normal levels as of shutdown hour 163 #IranProtests #Internet4Iran https://netblocks.org/reports/internet-restored-in-iran-after-protest-shutdown-dAmqddA9 ...pic.twitter.com/eimWEIEmrI".@netblocks (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2019.{{Chú thích web}}:Liên kết ngoài trong|title= (trợ giúp);no-break space character trong|title= tại ký tự số 337 (trợ giúp)
  50. ^"Iranian security forces are using lethal force to crush protests".www.amnesty.org (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2019.
  51. ^Lipin, Michael."US Confirms Report Citing Iran Officials as Saying 1,500 Killed in Protests".VOA.Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2020.
  52. ^"U.S. says Iran may have killed more than 1,000 in recent protests" (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 12 năm 2019.Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2019.
  53. ^"The Killing Of Eighteen Adolescents In Iran Protests Confirmed" (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 12 năm 2019.Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2019.
  54. ^"Special Report: Iran's leader ordered crackdown on unrest - 'Do whatever it takes to end it'" (bằng tiếng Anh). ngày 23 tháng 12 năm 2019.Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2019.
  55. ^"Bản sao đã lưu trữ".Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2019.
  56. ^"8,000 years old artifacts unearthed in Iran". The Nation. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2024.
  57. ^"Bản sao đã lưu trữ".Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2019.
  58. ^"8,000 years old artifacts unearthed in Iran - Home - News Pakistan TV". Home - News Pakistan TV.Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2024.
  59. ^"Democracy Index 2017: Free Speech Under Attack"(PDF).www.eiu.com. ngày 30 tháng 1 năm 2018.Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2018.
  60. ^Totten, Michael J. (ngày 16 tháng 2 năm 2016)."No, Iran is Not a Democracy".Dispatches. World Affairs Institute. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2018.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  61. ^Schmidt, Patrick."Iran's Election Procedures".The Washington Institute. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2018.
  62. ^Bezhan, Frud."Explainer: Iran's Process For Vetting Presidential Candidates".Radio Free Europe/Radio Liberty. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2018.
  63. ^"Iran: Three Child Offenders Executed". Human Rights Watch. 2018.
  64. ^Freedom House (2017)."Iran".Freedom in the World 2017. Freedom House.Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2017.The Islamic Republic of Iran holds elections regularly, but they fall short of democratic standards due to the role of the hard-line Guardian Council, which disqualifies all candidates deemed insufficiently loyal to the clerical establishment. Ultimate power rests in the hands of the country'ssupreme leader, AyatollahAli Khamenei, and the unelected institutions under his control. Human rights abuses continued unabated in 2016, with the authorities carrying out Iran's largest mass execution in years and launching a renewed crackdown on women's rights activists. The regime maintained restrictions on freedom of expression, both offline and online, and made further arrests of journalists, bloggers, labor union activists, and dual nationals visiting the country, with some facing heavy prison sentences. Hard-liners in control of powerful institutions, including the judiciary and the Islamic Revolutionary Guard Corps (IRGC), were behind many of the year's abuses. There were no indications that President Hassan Rouhani, a self-proclaimed moderate seeking reelection in 2017, was willing or able to push back against repressive forces and deliver the greater social freedoms he had promised. Opposition leaders Mir Hossein Mousavi, his wife Zahra Rahnavard, and reformist cleric Mehdi Karroubi remained under house arrest for a sixth year without being formally charged or put on trial. As in 2015, the media were barred from quoting or reporting on former president Mohammad Khatami, another important reformist figure.
  65. ^Avery, Daniel (ngày 4 tháng 4 năm 2019)."71 Countries Where Homosexuality is Illegal".Newsweek.
  66. ^"Iran defends execution of gay people".Deutsche Welle. ngày 12 tháng 6 năm 2019.
  67. ^Federal Research Division, Library of Congress.""Iran - The Constitution"". Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  68. ^Seyed Hossein Mousavian; Shahir Shahidsaless (2014).Iran and the United States: An Insider's View on the Failed Past and the Road to Peace. Bloomsbury Publishing. tr. 33.ISBN 978-1-62892-870-9.
  69. ^"Iran, Islamic Rep". World Bank.Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2013.
  70. ^Iran Investment MonthlyLưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2013 tạiWayback Machine. Turquoise Partners (April 2012). Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2012.
  71. ^ab"Iran in numbers: How cost of living has soared under sanctions".BBC News. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2013.
  72. ^"Iran and sanctions: When will it ever end?".The Economist. ngày 18 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2013.
  73. ^Census Bureau, Government of the U.S.A.""IDB Summary Demographic Data for Iran"". Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  74. ^Asia-Pacific Population Journal, United Nations.""A New Direction in Population Policy and Family Planning in the Islamic Republic of Iran"".Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  75. ^Iran News, Payvand.com."Bản sao đã lưu trữ".Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.{{Chú thích báo}}:Đã định rõ hơn một tham số trong|tiêu đề=|title= (trợ giúp)
  76. ^Federal Research Division, Library of Congress.""Iran - Refugees"". Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  77. ^World News, BBC.co.uk.""Iran's Afghan refugees feel pressure to leave"" (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  78. ^Integrated Regional Information Networks, UN Office for the Coordination of Humanitarian Affairs.""Extension of Afghan repatriation agreement under possible threat"" (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  79. ^World Factbook, CIA.""Iran"".Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  80. ^World Factbook, C.I.A.""Iran - People"" (bằng tiếng Anh).Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  81. ^Iran Census Results 2011 United Nations
  82. ^Special Rapporteur, United Nations High Commissioner for Human Rights.""Special Rapporteur on Freedom of Religion or Belief concerned about treatment of followers of Bahá'í faith in Iran"". Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  83. ^Iran News, Payvand.com.""Nowrouz Vital Meeting to be Held in Tehran"" (bằng tiếng Anh).Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2006.
  84. ^K K Goswami (2009).Advances in Carpet Manufacture. Elsevier. tr. 148.ISBN 978-1-84569-585-9.
  85. ^Khalaj, Mehrnosh (ngày 10 tháng 2 năm 2010)."Iran's oldest craft left behind". FT.com. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2013.

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]

Liên kết chính thức

[sửa |sửa mã nguồn]
Trairan trong từ điển mở tiếng ViệtWiktionary
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềIran.

Bản mẫu {{Wikinews}} liên kết tới bài viết. Để liên kết một thể loại, dùng {{Wikinews category}}.

Wikivoyage có cẩm nang du lịch vềIran.

Liên kết khác

[sửa |sửa mã nguồn]
Iran News Sites
Quốc gia

chủ quyền
Quốc gia được
công nhận hạn chế
Lãnh thổ phụ thuộc
Đặc khu hành chính
Anh
Trung Quốc
Úc
Hội nghị thượng đỉnh
Thành viên
Thành viên
Afghanistan • Albania • Algérie • Azerbaijan • Bahrain • Bangladesh • Bénin • Burkina Faso • Brunei • Cameroon • Tchad • Comoros • Bờ Biển Ngà • Djibouti • Ai Cập • Gabon • Gambia • Guinée • Guiné-Bissau • Guyana • Indonesia • Iran • Iraq • Jordan • Kuwait • Kazakhstan • Kyrgyzstan • Liban • Libya • Maldives • Malaysia • Mali • Maroc • Mauritanie • Mozambique • Niger • Nigeria • Oman • Pakistan • Palestine • Qatar • Ả Rập Xê Út • Sénégal • Sierra Leone • Somalia • Sudan • Suriname • Syria • Tajikistan • Thổ Nhĩ Kỳ • Tunisia • Togo • Turkmenistan • Uganda • Uzbekistan • Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất • Yemen
Quan sát viên
Quốc gia và vùng lãnh thổ
Cộng đồng Hồi giáo
Tổ chức quốc tế
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Iran&oldid=74421102
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp