Cung cấp tư vấn chính sách cho các chính phủ thành viên và các ngân hàng trung ương; cung cấp nghiên cứu, phân tích và dự báo thị trường quốc tế và cá nhân; cho vay các nước thành viên; và các hình thức hỗ trợ hoặc đào tạo khác để giúp các nước quản lý tốt hơn nền kinh tế của mình.
Vào năm1930, khi hoạt động kinh tế ở những nước công nghiệp chính thu hẹp, nhiều nước bắt đầu áp dụng tư tưởngtrọng thương, cố gắng bảo vệ nền kinh tế của họ bằng việc hạn chếnhập khẩu. Để khỏi giảm dự trữvàng,ngoại hối, một vài nước cắt giảm nhập khẩu, một số nướcphá giá đồng tiền của họ, và một số nước áp đặt các hạn chế đối với tài khoản ngoại tệ của công dân. Những biện pháp này có hại đối với chính bản thân các nước đó vì như lý thuyếtlợi thế so sánhtương đối củaRicardo đã chỉ rõ mọi nước đều trở nên có lợi nhờ thương mại không bị hạn chế. Lưu ý là, theo lý thuyếttự do mậu dịch đó, nếu tính cả phân phối, sẽ có những ngành bị thiệt hại trong khi các ngành khác được lợi. Thương mại thế giới đã sa sút nghiêm trọng, khiviệc làm vàmức sống ở nhiều nước suy giảm.
IMF đã đi vào hoạt động ngày27 tháng 12 năm1945, khi đó có 29 nước đầu tiên ký kết nó là những điều khoản của hiệp ước. Mục đích của luật IMF ngày nay là giống với luật chính thức năm1944. Ngày1 tháng 3 năm1947 IMF bắt đầu hoạt động và tiến hành cho vay khoản đầu tiên ngày8 tháng 5 năm1947.
Từ cuốiđại chiến thế giới thứ 2 cho đến cuối năm1972, thế giới tư bản đã đạt được sự tăng trưởngthu nhập thực tế nhanh chưa từng thấy. (Sau đó sự hội nhập củaTrung Quốc vào hệ thống tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy đáng kể sự tăng trưởng của cả hệ thống.) Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, lợi ích thu được từ tăng trưởng đã không được chia đều cho tất cả, song hầu hết các nước tư bản đều trở nên thịnh vượng hơn, trái ngược hoàn toàn với những điều kiện trong khoảng thời gian trước của những nước tư bản trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.
Trong những thập kỷ sau chiến tranh thế giới hai, kinh tế thế giới và hệ thống tiền tệ có thay đổi lớn làm tăng nhanh tầm quan trọng và thích hợp trong việc đáp ứng mục tiêu của IMF, nhưng điều đó cũng có nghĩa là yêu cầu IMF thích ứng và hoàn thiện cải tổ. Những tiến bộ nhanh chóng trongkỹ thuật công nghệ vàthông tin liên lạc đã góp phần làm tăng hội nhập quốc tế của cácthị trường, làm cho các nền kinh tế quốc dân gắn kết với nhau chặt chẽ hơn. Xu hướng bây giờ mở rộng nhanh chóng hơn số quốc gia trong IMF.
Ảnh hưởng của IMF trong kinh tế toàn cầu được gia tăng nhờ sự tham gia đông hơn của các quốc gia thành viên. Hiện IMF có 190 thành viên, nhiều hơn bốn lần so với con số 44 thành viên khi nó được thành lập.
Nguồn vốn của IMF là do các nước đóng góp, các nước thành viên có cổ phần lớn trong IMF làMỹ (17,46%),Đức (6,11%),Nhật Bản (6,26%),Anh (5,05%) vàPháp (5,05%).
Việt Nam Cộng hòa gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 1956. Năm 1975 ghế hội viên chuyển choCộng hoà Miền Nam Việt Nam kế thừa. Năm 1976 thì CHXHCN Việt Nam chính thức tham gia chiếu theo hội viên của hai quốc gia trước.[1] Hiện nay cổ phần của Việt Nam tại IMF bằng 460,7 triệu SDR, chiếm 0,193% tổng khối lượng cổ phần và có tỷ lệ phiếu bầu là 0,212% tổng số quyền bỏ phiếu. Việt Nam thuộc nhóm Đông Nam Á với 13 nước thành viên.[2]