Giáo hội Hy Lạp được công nhận bởi hiến pháp Hy Lạp là tôn giáo lưu hành tại Hy Lạp,[9] và là đất nước duy nhất mà Chính Thống giáo phương Đông được công nhận rõ ràng là một quốc giáo.[10]
Hy Lạp là một trong những nền văn minh rực rỡ nhất thời kỳ cổ đại, có ảnh hưởng sâu rộng xung quanh khu vực Địa Trung Hải và để lại nhiều di sản. Đây là nơi ra đời của nền dân chủ, triết học phương Tây,Thế vận hội Olympic cùng nhiều phát minh, nghiên cứu khoa học, nghệ thuật khác. Đến thời kỳ trung cổ, Hy Lạp trở thành một phần củaĐế chế Byzantine rồi sau đó lại nằm trongĐế chế Ottoman trong gần 4 thế kỷ. Năm 1821, người Hy Lạp nổi dậy đấu tranh giành độc lập. Năm 1981, Hy Lạp trở thành thành viên củaLiên minh châu Âu.[11]
Tên "Hy Lạp" trong tiếng Việt bắt nguồn từtiếng Trung. Trongtiếng Hy Lạp, nước này được gọi làHellas (Ελλάς) hoặcEllada (Ελλάδα).[12] Qua tiếng Trung, "Hellas" được phiên âm thành "希臘" (pinyin:Xīlà), đọcâm Hán Việt sẽ là "Hy Lạp".[13].
Trongtiếng Anh, nước này được gọi làGreece, bắt nguồn từ danh xưngGraecia trongtiếng Latin có nghĩa làVùng đất của tộcGraeci (Γραικοί,Graikoí; dạng số ítΓραικός,Graikós). Tộc này là một trong số các tộc Hy Lạp đầu tiên di cư đến miền Nam đất nước Ý ngày nay.Tộc danh này nhiều khả năng bắt nguồn từ căn tốẤn-Âu nguyên thủy*ǵerh₂- "già đi".[14]
Nền văn minh Minoan đạt đến đỉnh cao trên đảo Crete vào khoảng năm 2700 đến 1450 trước Công nguyên. Nền kinh tế của họ chủ yếu dựa trên sản xuất nông nghiệp và hoạt động ngoại thương với các quốc gia láng giềng. Người Minoan đã sản xuất ra nhiều loại đồ gốm chất lượng cao và xây dựng được nhiều đền đài tráng lệ. Dấu tích của những công trình vẫn còn tồn tại đến ngày nay trên đảo Crete, một trong số đó là quần thể cung điện tạiKnossos. Đến khoảng năm 1600 trước Công nguyên, nền văn minh Mycenae trên bán đảo Peloponnese đã phát triển thịnh vượng và lấn át nền văn minh Minoan đang tan rã. Họ đã xây dựng được nhiều thành phố lớn giàu có và thiết lập các mối quan hệ ngoại thương với các quốc gia láng giềng. Thế nhưng đến khoảng năm 1200 TCN, trước sự đe dọa của ngoại xâm, các thành trì tại Mycenae đã bị bỏ phế, buôn bán với nước ngoài bị đình trệ. Nền văn minh Mycenae sụp đổ đã dẫn tới một thời kỳ khủng hoảng tại Hy Lạp kéo dài hơn 3 thế kỷ với tên gọiKỷ nguyên Bóng tối.
Khoảng thế kỷ VIII trước Công nguyên, Hy Lạp bắt đầu thoát ra khỏi Kỷ nguyên Bóng tối. Kinh tế, đặc biệt là ngoại thương được đẩy mạnh với các cơ sở thương mại được thành lập tại rất nhiều nơi. Dân số Hy Lạp tăng nhanh trong khi đất đai có hạn đã dẫn tới dòng người Hy Lạp di cư ra khắp các vùng tạiĐịa Trung Hải, đặc biệt là miền namÝ và thành lập những thành phố mới độc lập với các thành phố quê hương của họ. Nền kinh tế phát triển đã khiến Hy Lạp trở nên rất giàu có. Đơn vị hành chính cơ bản ởHy Lạp cổ đại là các thành bang. Thông thường giữa các thành bang hay xảy ra xung đột với nhau để tranh giành lãnh thổ, trong đó hai thành bangAthens vàSparta là có ảnh hưởng đặc biệt trong lịch sử của Hy Lạp. Thời kỳ đầu, các thành bang theochế độ quân chủ. Nhưng về sau, đặc biệt là ở Athens, nềndân chủ đã được thành lập, dù Sparta vẫn còn giữ vững chế độ quân chủ trong suốt lịch sử tồn tại của họ. Tuy nhiên chế độ dân chủ ở Hy Lạp cổ rất khác so với ngày nay vì chỉ có những công dân nam giới mới được quyền bầu cử. Chế độchiếm hữu nô lệ phát triển mạnh ở Hy Lạp cổ đại.
Năm 490 trước Công nguyên, Hy Lạp đã đánh bại quânBa Tư xâm lược tạitrận Marathon nổi tiếng. Và đến năm 480, thủy binh Ba Tư lại phải chịu thất bại nặng nề trong trận thủy chiếnSalamis. Những trận chiến này đã khẳng định sức mạnh quân sự hùng hậu của Hy Lạp. Dưới thời VuaAlexandros Đại đế củaVương quốc Macedonia, người Hy Lạp đã có những cuộc bành trướng rộng khắp sangAi Cập,Ba Tư vàẤn Độ. Những cuộc chinh phục của ông đã dẫn tới sự định cư và thống trị của người Hy Lạp tại nhiều vùng đất xa xôi và làm ảnh hưởng văn hóa của Hy Lạp lan rộng hơn bao giờ hết. Thời kỳ này được gọi làThời kỳ Hy Lạp hóa. Về sau, khiĐế chế La Mã thành lập và trở nên hùng mạnh, Hy Lạp đã trở thành một tỉnh của La Mã nhưng những ảnh hưởng văn hóa của Hy Lạp cổ đại vẫn được duy trì và phát triển.
Văn hóa Hy Lạp có ảnh hưởng sâu rộng đếnLa Mã và nền văn minh phương Tây hiện đại. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của văn học Hy Lạp cổ đại làthần thoại Hy Lạp, một tập hợp gồm nhiều truyền thuyết về các vị thần nhưZeus,Hera,Athena,Apollo,... Triết học Hy Lạp là nền móng của triết học phương Tây với các nhà triết học nổi tiếng nhưThales,Platon,Aristote,... Toán học và khoa học Hy Lạp đạt được khá nhiều thành tựu rực rỡ với các nhà khoa học bậc thầy nhưPythagoras,Archimedes,.. Họ đã phát minh ra những định lý cơ sở cho toán học và khoa học hiện đại. Kiến trúc Hy Lạp cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn với các công trình tiêu biểu nhưđền Parthenon, các khu di tíchOlympia,Delphi với hàng loạt các đền đài, quảng trường, nhà hát, sân vận động khác. Hy Lạp cũng là nơi ra đờiThế vận hội (Olympic) đầu tiên vào năm 776 trước Công nguyên và được tổ chức 4 năm một lần, khởi nguồn của Thế vận hội Olympic hiện đại ngày nay.
Hy Lạp thời Trung cổ
Tháp Trắng Thessaloniki, một trong những công trình nổi tiếng, mang kiến trúc Ottoman còn sót lại tại Hy Lạp
Vào khoảng cuốithế kỷ III,Đế chế La Mã phân chia thành hai phần: phía tây và phía đông. Hy Lạp trở thành một phần của Đế chế Đông La Mã, sau này đổi tên thànhĐế chế Byzantine. Đế chế Byzantine là một nhà nước trung cổ theođạo Cơ đốc, trong đótiếng Hy Lạp là ngôn ngữ chính thức.Thế kỷ XI vàthế kỷ XII là thời kỳ hoàng kim của Đế chế Byzantine. Tuy nhiên sau đó, đế chế này đã dần dần bị suy yếu trước những cuộc tấn công của ngườiHồi giáo và cuối cùng sụp đổ vào năm 1453.
Dưới sự cai trị tàn bạo củaĐế chế Ottoman theo Hồi giáo, một bộ phận lớn trí thức người Hy Lạp đã nhập cư vào Tây Âu, đặc biệt là Ý. Họ đã góp phần rất lớn trongPhong trào Phục hưng tại châu Âu thời trung cổ. Một bộ phận khác thì rời bỏ bán đảo Hy Lạp và đến sống tại những vùng núi hoang vu hẻo lánh hay những hòn đảo trênbiển Aegean, nơi mà Đế chế Ottoman không thể áp đặt hệ thống chính trị và tôn giáo của họ lên người Hy Lạp. Những cộng đồng người Hy Lạp được củng cố với nhau do cùng chung cơ sở tôn giáo làChính thống giáo và tôn giáo đã đóng vai trò khá quan trọng trong cuộc chiến tranh giành độc lập cho Hy Lạp sau này.
Nước Hy Lạp hiện đại thành lập
Lá cờ của Hy Lạp trong cuộc chiến giành độc lập năm 1821
Tháng 3 năm 1821, cuộcchiến tranh giành độc lập Hy Lạp chống lại Đế chế Ottoman bùng nổ mạnh mẽ. Cuộc chiến này kéo dài cho đến tận năm 1829, khi nền độc lập của nước Hy Lạp non trẻ chính thức được công nhận tạiNghị định thư Luân Đôn. Năm 1832, Đế chế Ottoman đã phải thừa nhận nền độc lập của Hy Lạp trongHiệp ước Constantinople. Vào năm 1827,Ioannis Kapodistrias được chọn là người đứng đầu chính phủ cộng hòa tuy nhiên ngay sau đó, nền cộng hòa đã bị giải tán và thay thế bởi chế độ quân chủ. Vị vua đầu tiên làOthon của Hy Lạp, một người thuộc dòng họWittelsbach. Đến năm 1863, vua Othon bị phế truất và thay thế bởihoàng tử Vilhelm của Đan Mạch, thuộc dòng họOldenburg. Vilhelm đã đăng quang danh hiệu vua Hy Lạp với tên gọiGeorgios I của Hy Lạp và mang theo một món quà của nước Anh: ngày 29 tháng 3 năm 1864, chủ quyền củaquần đảo Ionia đã được Anh chuyển giao cho Hy Lạp và đến ngày 28 tháng 5 năm 1864, quần đảo này đã được thống nhất với Hy Lạp.
Sau khi giành được độc lập, nền kinh tế Hy Lạp đã phát triển nhanh chóng, những cải cách chính trị được thực hiện. Năm 1877, thủ tướngCharilaos Trikoupis đã cắt giảm bớt quyền lực của hoàng gia Hy Lạp. Năm 1896,Thế vận hội hiện đại đầu tiên đã được tổ chức tại thành phốAthens.
Cuộcchiến tranh Balkan (1912-1913) đã dẫn tới việc các vùngCrete,Chios,Samos và miền namMacedonia, trong đó cóThessaloniki được sáp nhập vào Hy Lạp. Năm 1913, vua Georgios I bị ám sát tại Thessaloniki và được thay thế bởi người con cả là vuaKonstantinos I của Hy Lạp. TrongChiến tranh thế giới thứ nhất, Hy Lạp đã tham gia vào pheEntente chống lạiĐức vàÁo. Điều này đã gây ra xung đột giữa nhà vua và thủ tướng Eleftherios Venizelos và cuối cùng dẫn đến việc vua Konstantinos I phải nhường ngôi cho con trai đồng thời gây ra sự chia rẽ về chính trị tại Hy Lạp.
Tranh chấp lãnh thổ về khu vựcSmyrna thuộcTiếu Á cũng dẫn tới cuộcchiến tranh Hy Lạp - Thổ Nhĩ Kỳ (1919-1922) giữa người Hy Lạp và những người người cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ. Cuối cùng, người Hy Lạp bại trận,Hiệp ước Lausanne được ký kết vào năm 1923 đã định ra đường biên giới ngày nay và định ra việc trao đổi dân cư giữa hai nước. Năm 1936, tướngIoannis Metaxas thiết lập chế độ độc tài tại Hy Lạp, còn gọi là chế độ mùng 4 tháng 8.
Chiến tranh thế giới thứ hai, hậu chiến và chế độ độc tài
Xe tăng tấn công Đại học Bách khoa Athens năm 1973
Ngày 28 tháng 10 năm 1940, nhà độc tàiÝBenito Mussolini gửi tối hậu thư yêu cầu Hy Lạp đầu hàng và cho quân phát xít chiếm đóng lãnh thổ. Người Hy Lạp đã kiên quyết nói không và đứng về pheĐồng Minh chống lại lực lượng phát xít. Ngay lập tức, quân phát xít Ý đã tràn vào chiếm đóng Hy Lạp từ miền namAlbania nhưng đã vấp phải sự kháng cự hiệu quả của quân đội Hy Lạp. Tiếp theo đó là trận đánh tại dãy núi Pinlus đã khiến cho quân Mussolini bị đẩy lùi. Lúc đó,Adolf Hitler mới nhận ra vị trí chiến lược của Hy Lạp và hạ lệnh cho quân phát xít Đức vàBulgaria tràn vào lãnh thổ nước này.
Sự xâm lược củaphát xít Đức vào ngày 6 tháng 4 năm 1941 đã hoàn thành việc chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ Hy Lạp. Nước này trở thành một chiến trường ác liệt cho đến ngày 12 tháng 10 năm 1944, khi thành phố Athens được quân Đồng Minh giải phóng. Trong thời gian cai trị của phát xít Đức, nhiềungười Do Thái tại Hy Lạp đã bị đẩy vào các trại tập trung và giết hại. Nạn đói sau chiến tranh đã giết chết khoảng 300.000 người.
Sau khi được giải phóng khỏi ách cai trị của phát xít Đức, cuộcnội chiến Hy Lạp bùng nổ giữa những ngườicánh tả vàcánh hữu. Cuộc chiến kéo dài từ năm 1946 đến năm 1949, khi lực lượng cánh tả bị đánh bại tại trận Grammos-Vitsi. Trong các thập niên 1950, 1960, Hy Lạp đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và vững chắc do nằm trongKế hoạch Marshall củaMỹ.
Bắt đầu từ năm 1965, Hy Lạp lâm vào một cuộc khủng hoảng chính trị khiến tình hình đất nước trở nên hỗn loạn. Ngày 21 tháng 8 năm 1967, một cuộc đảo chính được Mỹ ủng hộ[cần dẫn nguồn] đã diễn ra, lật đổ chính phủ dân chủ và thành lập một chế độ độc tài quân sự với tên gọi Chế độ Đại tá.[cần dẫn nguồn] Những năm sau đó, rất nhiều ngườicánh tả vàcộng sản tại Hy Lạp đã bị bắt giữ và tra tấn hết sức dã man[cần dẫn nguồn]. Nhiều chính trị gia phải chạy sang các nước khác nhưPháp vàThụy Điển để xin tị nạn[cần dẫn nguồn]. Vào tháng 11 năm 1973, sinh viên trườngĐại học Bách khoa Athens nổi dậy chống lại chế độ độc tài nhưng cuộc nổi dậy nhanh chóng bị dập tắt, xe tăng được điều đến tấn công trường đại học và tàn sát sinh viên[cần dẫn nguồn].
Ngày 20 tháng 7 năm 1974,Thổ Nhĩ Kỳ tấn côngđảo Síp. Cuộc khủng hoảng sau đó đã dẫn đến sự sụp đổ của chế độ độc tài tại Hy Lạp vào ngày 23 tháng 7 năm 1974.
Hy Lạp ngày nay (từ năm 1975 đến nay)
Tràng pháo hoa mở màn Olympic 2004 tại Athens
Ngay sau khi chế độ độc tài sụp đổ, cựu thủ tướngKonstantinos Karamanlis đã từPháp trở về Hy Lạp và thành lậpĐảng Dân chủ Mới. Chính phủ dân chủ được tái thành lập tại Hy Lạp và bản hiến pháp dân chủ của nước cộng hòa được ban hành vào năm 1975. Chế độ quân chủ ở Hy Lạp chính thức bị giải tán trong một cuộc trưng cầu dân ý cùng năm. Sau đó,Andreas Papandreou cũng trở về từ Mỹ và thành lậpPhong trào Xã hội Chủ nghĩa Hy Lạp.
Về đối ngoại, mối quan hệ vốn thường xuyên căng thẳng với Thổ Nhĩ Kỳ đã dần dần được cải thiện. Mùa hè năm1999, những trận động đất lớn đã tấn công hai quốc gia này, và những hoạt động cứu trợ nhau sau đó giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ đã góp phần làm ấm lại mối quan hệ giữa hai nước.
Ngày 1 tháng 1 năm 1981, Hy Lạp trở thành thành viên thứ 10 của Liên minh châu Âu.[15] Nền kinh tế Hy Lạp đã phát triển rất nhanh chóng, với một nguồn vốn đầu tư lớn của nước ngoài đổ vào Hy Lạp để hiện đại hóa hệ thống hạ tầng cơ sở của nước này, xây dựng nền kinh tế Hy Lạp theo hướng hiện đại. Dịch vụ và du lịch ngày càng phát triển đã góp phần nâng cao mức sống của người dân. Năm 2001, Hy Lạp tham gia vào nhóm các nước sử dụng đồng tiền chung châu Âu euro và sau đó tổ chức thành công Thế vận hội 2004.[16]
Gần đây, Hy Lạp đã hứng chịu hậu quả rất nặng nề từ cuộc suy thoái kinh tế cuối những năm 2000 và là trung tâm của cuộc khủng hoảng nợ châu Âu. Do áp dụng đồng euro, khi Hy Lạp trải qua cuộc khủng hoảng tài chính, họ không còn có thể phá giá đồng tiền để lấy lại khả năng cạnh tranh. Tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên đặc biệt cao trong những năm 2000.[17] Cuộc khủng hoảng nợ của chính phủ Hy Lạp, và các chính sách thắt lưng buộc bụng, đã dẫn đến nhiều cuộc biểu tình.
Trong cuộc bầu cử vào tháng 5 năm 2012, tầm ảnh hưởng của các đảng chính trị Hy Lạp cổ đại, PASOK và Dân chủ Mới, đã giảm từ 43% xuống còn 13% và từ 33% xuống còn 18% do sự ủng hộ của họ đối với các biện pháp thắt chặt. Đảng cánh tả SYRIZA đã trở thành đảng lớn thứ hai, với mức tăng từ 4% lên 16%. Không đảng nào có thể thành lập một chính phủ bền vững, dẫn đến cuộc bầu cử tháng 6 năm 2012. Kết quả của cuộc bầu cử lần thứ hai là sự hình thành của một chính phủ liên hiệp gồm Dân chủ Mới (29%), Phong trào Xã hội Chủ nghĩa Hy Lạp đứng thứ hai (12%) và Đảng Dân chủ Trái (6%).
Alexis Tsipras chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử được tổ chức vào ngày 25 tháng 1 năm 2015, chỉ còn lại hai ghế. Sáng hôm sau, Tsipras đã đạt được thỏa thuận với đảng Hy Lạp độc lập để thành lập một liên minh và ông đã tuyên thệ nhậm chứcThủ tướng Hy Lạp. Tsipras đã kêu gọi tổ chức bầu cử vào tháng 8 năm 2015 sau khi ông này từ chức, dẫn tới một chính quyền chăm sóc hàng tháng do thẩm phán Vassiliki Thanou-Christophilou, thủ tướng nữ đầu tiên của Hy Lạp đứng đầu. Tuy nhiên, trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng 9 năm 2015, Tsipras lại tái đắc cử, đảng Syriza do ông lãnh đạo đã giành 145 ghế trong số 300 ghế và tái lập liên minh với những người Hy Lạp độc lập.
Năm 2019,Kyriakos Mitsotakis trở thành thủ tướng sau khi Đảng Dân chủ Mới của ông thắng cử trongcuộc bầu cử Quốc hội.[18] Năm 2020,Katerina Sakellaropoulou được bầu làm nữ tổng thống đầu tiên của Hy Lạp.[19] Tháng 2 năm 2024, Hy Lạp trở thành quốc gia Chính thống giáo Đông phương đầu tiên công nhận hôn nhân cùng giới và quyền nhận nuôi con của cặp đôi cùng giới.[20]
Địa lý
Lãnh thổ
Bản đồ mô phỏng địa hình Hy Lạp
Lãnh thổ Hy Lạp bao gồm phần đất liền nằm trênbán đảo Balkan và khoảng 3000 hòn đảo nằm trên biển Ionia, Địa Trung Hải và biển Aegean. Những đảo lớn nhất của Hy Lạp là đảoCrete,Rhodes,Corfu. Tổng diện tích của Hy Lạp là 131.940 km², trong đó phần nước chiếm tỉ lệ 0,9%.
Đường biên giới trên bộ của Hy Lạp dài tổng cộng 1935 km. Hy Lạp chia sẻ đường biên giới chung với các quốc gia làAlbania (282 km),Bulgaria (494 km),Thổ Nhĩ Kỳ (931 km) vàCộng hòa Macedonia (228 km). Mặc dù có diện tích nhỏ nhưng do có nhiều đảo và quần đảo nên chiều dài đường bờ biển của Hy Lạp rất lớn, lên tới 130.800 km và đứng thứ 10 trên thế giới về độ dài đường bờ biển.
Địa hình
Đất nước Hy Lạp có địa hình khá hiểm trở với khoảng 80% diện tích là đồi núi. Nằm ở trung tâm đất nước Hy Lạp là dãy núiPinlus hùng vĩ với độ cao trung bình là 2636 m so với mực nước biển. Dãy núi Pinlus là một nhánh mở rộng của dãyAlps Dinaric trên bán đảo Balkan và còn tiếp tục trải dài qua bán đảoPeloponnese, mở rộng xuống phía nam tạo thành rất nhiều hòn đảo lớn nhỏ trên biển Aegean, cuối cùng kết thúc ở đảoCrete. Những hòn đảo trên biển Aegean của Hy Lạp chính là đỉnh của những dãy núi chạy ngầm bên dưới đáy biển. Phia bắc của Hy Lạp có dãy núi Rhodope làm thành một đường biên giới tự nhiên giữa Hy Lạp vàBulgaria.Núi Olympus là đỉnh núi cao nhất Hy Lạp, cao 2919 m. Đây được cho là nơi ở của những vị thần Hy Lạp vào thời cổ đại và ngày nay trở thành một địa điểm leo núi hấp dẫn tại Hy Lạp.
Các đồng bằng chiếm diện tích rất nhỏ tại Hy Lạp và tập trung ở các vùng Thessaly, Trung Macedonia và Thrace. Đây là những nơi có nhiều đất đai màu mỡ đồng thời là những vùng tập trung đông dân cư tại Hy Lạp.
Các sông ở Hy Lạp thường ngắn và dốc, một số sông nhỏ thường hay bị khô cạn vào mùa hè. Các con sông là một nguồn cung cấp thủy điện lớn cho Hy Lạp. Nước này còn có nhiều tài nguyên khoáng sản phong phú nhưnhôm,than non,magie,kẽm,niken,dầu hỏa.
Địa hình có ảnh hưởng quan trọng đối với khí hậu của Hy Lạp. Ví dụ như sườn phía tây của dãy núi Pinlus hứng gió nhiều hơn so với phần phía đông, cho nên có độ ẩm và lượng mưa cao hơn hẳn so với sườn phía đông bị khuất gió.
Khí hậu Hy Lạp có thể chia thành 3 kiểu khí hậu chính:khí hậu Địa Trung Hải,khí hậu núi cao vàkhí hậu ôn hòa. Khí hậu Địa Trung Hải là loại khí hậu chủ yếu ở Hy Lạp với mộtmùa đông ấm áp và mưa nhiều, song thỉnh thoảng cũng có thể có tuyết rơi ở những quần đảo xa về phía nam Hy Lạp. Mùa hạ thường rất nóng và khô hạn. Chính đặc điểm này của khí hậu Địa Trung Hải đã dẫn đến những vụ cháy rừng rất lớn tại Hy Lạp, gây ra nhiều thiệt hại về người và của. Gần đây nhất vào tháng 8 năm 2007, một vụ cháy rừng đã lan rộng khắp đất nước Hy Lạp khiến 64 người chết và gây thiệt hại 1,6 tỷ đô la Mỹ.[21] Khí hậu núi cao phân bố chủ yếu ở những vùng núi phía tây bắc Hy Lạp, bán đảo Peloponnese và dãy núi Pinlus. Tại những vùng này, khí hậu thay đổi theo độ cao. Khí hậu ôn hòa có diện tích phân bố nhỏ, tập trung ở vùng đông bắc Hy Lạp với nhiệt độ mát mẻ hơn so với khí hậu Địa Trung Hải và có lượng mưa vừa phải.
Thủ đôAthens của Hy Lạp thuộc kiểu khí hậu chuyển tiếp giữa Địa Trung Hải và ôn hòa. Nhiệt độ trung bình cao nhất tại đây vào tháng 7 là 33,5 °C, còn nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng 1 là 5,2 °C.[22] phía bắc của thành phố Athens có kiểu khí hậu ôn hòa trong khi những vùng phía nam lại mang khí hậu Địa Trung Hải.
Thực vật và động vật
Hồ Kremasta
Rừng chiếm khoảng 50% diện tích đất đai tại Hy Lạp với nhiều loài thực vật đa dạng, phong phú.Nguyệt quế là loài cây biểu trưng của đất nước Hy Lạp và đã được dùng làm vòng nguyệt quế cho những nhà vô địch thể thao thời xưa. Tại những vùng đồng bằng ở Hy Lạp có rất nhiều rừng câyô liu xanh tốt. Còn tại những vùng núi phía bắc có những cánh rừnglinh sam vàthông đen. Rừngsồi vàdẻ mọc ở những vùng thấp hơn, bên cạnh đó còn có những cánh đồng trồngnho. Các loài cây quen thuộc khác ở Hy Lạp làhoa giấy,hoa nhài,mimosa,trúc đào,hoa huệ xạ,...
Quốc hội làcơ quan lập pháp đơn viện, gồm 300 nghị sĩ.[23] Chính phủ vàtổng thống thực hiện quyền hành pháp. Tổng thống lànguyên thủ quốc gia mang tính nghi lễ, do Quốc hội bầu với nhiệm kỳ năm năm.[23]Thủ tướng làngười đứng đầu chính phủ,[26] thường là lãnh đạo của đảng chiếm đa số trong Quốc hội. Tổng thống chính thức bổ nhiệm thủ tướng và bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên Nội các theo đề nghị của thủ tướng.[23]
Luật pháp
Tòa án thực hiện quyền tư pháp độc lập. Hệ thống tư pháp được chia thành tòa án ngạch tư pháp và tòa án ngạch hành chính, gồm ba tòa án tối cao:Tòa án dân sự và hình sự tối cao, Tham chính viện vàTòa kiểm toán.
Đối ngoại
Cơ quan đại diện ngoại giao của Hy Lạp ở nước ngoài:[27] đại sứ quán đại sứ quán ở nước thứ ba tổng lãnh sự quán không có quan hệ ngoại giao Hy Lạp
Bộ Ngoại giao thi hành chính sách đối ngoại của Hy Lạp dưới sự lãnh đạo của bộ trưởng ngoại giao. Bộ trưởng Ngoại giao đương nhiệm làGiorgos Gerapetritis. Bộ Ngoại giao có nhiệm vụ thay mặt Hy Lạp về đối ngoại; bảo vệ quyền lợi của nhà nước và công dân Hy Lạp ở nước ngoài; quảng bá văn hóa Hy Lạp; tăng cường mối quan hệ vớingười Hy Lạp ở nước ngoài; và thúc đẩy hợp tác quốc tế.[28] Hy Lạp cómối quan hệ đặc biệt vớiSíp, Ý, Pháp, Armenia, Úc, Israel, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh.[29][30][31][32][33][34]
Hy Lạp được chia thành 13 vùng và 1 khu tự trị. Các tỉnh của Hy Lạp bao gồm 9 vùng nằm trên đất liền (bán đảo Hy Lạp) và 4 vùng thuộc các đảo và quần đảo. RiêngNúi Athos, một khu vực dành riêng cho những tu sĩ nam theoChính thống giáo được công nhận là một nước cộng hòa tự trị bán độc lập thuộc chủ quyền của Hy Lạp.[35] Đây là một bán đảo nhỏ nằm ở phía đông nam tỉnh Trung Macedonia. Tiếp đó, 13 vùng của Hy Lạp lại được chia tiếp thành 54 huyện.
Đảo Rhodes, một trong những địa điểm du lịch hấp dẫn tại Hy Lạp
Dịch vụ chiếm một tỉ trọng quan trọng trong nền kinh tế Hy Lạp. Trong các ngành dịch vụ, Hy Lạp đặc biệt phát triển ngành du lịch, vốn là thế mạnh của nước này với rất nhiều khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và các công trình văn hóa lịch sử độc đáo. Du lịch là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của Hy Lạp và đóng góp tới 15% GDP, đồng thời tạo ra nhiều việc làm lớn cho người dân Hy Lạp. Năm 2005, Hy Lạp đón tiếp khoảng 18 triệu du khách quốc tế đến tham quan.
Bên cạnh đó, các ngành kinh tế khác như ngân hàng, tài chính, viễn thông, sản xuất các thiết bị công nghệ cao cũng phát triển mạnh tại Hy Lạp. Nước này cũng có lợi thế về kinh tế biển với rất nhiều cảng nước sâu và một ngành công nghiệp đóng tàu hùng mạnh.[47] Các ngành công nghiệp quan trọng khác ở Hy Lạp là dệt, hóa chất, khai thác khoáng sản, chế biến thực phẩm.Nông nghiệp tuy chiếm tỉ trọng nhỏ song vẫn đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Các loại cây trồng chủ yếu ở Hy Lạp làlúa mì,lúa mạch,ôliu,hoa hướng dương,cà chua,cam,chanh... Cơ cấu kinh tế của Hy Lạp như sau: dịch vụ chiếm 85,0%,công nghiệp 12,0% vànông nghiệp 3,0%.[48]
Năm 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hy Lạp đạt 4,3%, cao hơn so với mức trung bình của Liên minh châu Âu.
Tuy nhiên, vào năm 2010, Hy Lạp trải qua cuộc khủng hoảng tiền tệ nghiêm trọng, & lây lan sang các nước khác nhưBồ Đào Nha,Cộng hoà Ireland,... Vì thế, chính phủ Hy Lạp đã phải sử dụng biện phápThắt lưng buộc bụng, nhưng không dược dân chúng ủng hộ nên đã liên tiếp xảy rabiểu tình. Giai đoạn 2011-2012 là giai đoạn tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng, trong đó vào năm 2011 GDP của Hy Lạp đã bị sụt giảm ở mức kỉ lục ̣-6,9%.[49] Cũng trong năm đó, 111.000 công ty Hy Lạp bị phá sản (cao hơn 27% so với năm 2010).[50][51] Kết quả là, tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh, từ 7,5% trong tháng 9 năm 2008 lên mức cao kỷ lục 23,1% vào tháng 5 năm 2012, trong khi tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên tăng từ 22,0% lên 54,9%. Tỷ lệ nợ công so với GDP năm 2014 là 177% GDP. Tỷ lệ này cao thứ ba thế giới sau Nhật Bản và Zimbabwe. Nợ công đạt ngưỡng đỉnh đẻm là 356 tỷ euro trong năm 2011; sau đó đã có sự suy giảm bởi một chương trình cứu trợ 305 tỷ euro vào năm 2012 nhưng vẫn tăng nhẹ trong những năm tiếp theo. Tỉ lệ nghèo đói gia tăng, khoảng 44% người Hy Lạp sống dưới mức nghèo khổ trong năm 2014.[52][53] Tác động của các biện pháp thắt lưng buộc bụng đối với người dân Hy Lạp là rất nghiêm trọng.[54] Vào tháng 2 năm 2012, có khoảng 20.000 người Hy Lạp rơi vào tình trạng vô gia cư, và 20% các cửa hàng ở trung tâm thành phố Athens lịch sử bị bỏ trống.
Kinh tế Hy Lạp tăng trưởng trở lại sau sáu năm suy thoái vào quý II năm 2014, và là nền kinh tế phát triển nhanh nhất của khu vực châu Âu trong quý III năm đó.[55]
Ngoại thương
Năm 2006, Hy Lạp xuất khẩu khoảng 24,4 tỉ USD. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Hy Lạp là thực phẩm, hàng chế tạo, dầu mỏ, hóa chất và vải vóc. Những thị trường xuất khẩu chính của nước này bao gồmĐức (13,2%),Ý (10,3%),Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (7,5%),Bulgaria (6,3%) vàMỹ (5,3%).[cần dẫn nguồn]
Nhập khẩu năm 2006 của Hy Lạp đạt khoảng 59,1 tỉ USD.[cần dẫn nguồn] Các mặt hàng nhập khẩu của Hy Lạp bao gồm máy móc, phương tiện vận tải, nhiên liệu và hóa chất. Các thị trường nhập khẩu chính của nước này là Đức (13,3%), Ý (12,8%),Pháp (6,4%),Hà Lan (5,5%) vàNga (5,5%).[cần dẫn nguồn]
Năm 2022, dân số của Hy Lạp ước tính là 10.6 triệu người.[56] Năm 2016,sinh suất của Hy Lạp là 8,5/1.000 người, trong khitử suất là 11,2/1000 người.[57]
Tốc độ gia tăng dân số của Hy Lạp hiện nay là 0,16%. Nhiều khả năng Hy Lạp sẽ phải đối mặt với tình trạng giảm dân số trong tương lai khi mà tỉ lệ tử tại nước này đã vượt quá tỉ lệ sinh. Dân cư Hy Lạp tăng lên chủ yếu do nhập cư.[58]
Người Thổ Nhĩ Kỳ là cộng đồng thiểu số lớn nhất tại Hy Lạp với số lượng khoảng 74.000 người. Họ sinh sống tập trung ở tỉnh Thrace thuộc miền đông bắc Hy Lạp. Tuy những mâu thuẫn lịch sử giữa người Thổ Nhĩ Kỳ và người Hy Lạp vẫn còn tồn tại nhưng đa phần các nhóm dân này đều sống hòa thuận với nhau.
Người Slav phân bố chủ yếu ở miền bắc Hy Lạp và có nguồn gốc từngười Bulgaria vàngười Macedonia. Họ được phân chia thành hai nhóm tôn giáo chính là người Slav theoChính thống giáo và người Slav theoHồi giáo.Người Albania cũng là một nhóm dân lớn ở Hy Lạp, chủ yếu là những người Albania nhập cư sang để tìm việc làm.Người Do Thái thì từng có một cộng đồng dân cư rất lớn tại nước này, nhưng phần lớn họ đã bị giết hại bởiphát xít Đức trongChiến tranh thế giới thứ hai hoặc nhập cư sangIsrael và một số nước khác. Ngày nay cộng đồng Do Thái ở Hy Lạp chỉ còn rất ít với khoảng 5500 người, tập trung chủ yếu ở Thessaloniki. Ngoài ra ở Hy Lạp còn có một cộng đồngngười Armenia khá đông đảo với khoảng 35.000 dân.
Hy Lạp thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân theo mô hình Bismarck. Theo báo cáo củatổ chức phi chính phủSave the Children vào năm 2013, Hy Lạp đứng thứ 19 trong số 176 quốc gia về chất lượng chăm sóc sức khỏe mẹ, trẻ sơ sinh.[65] Tính đến năm 2014[cập nhật], Hy Lạp có 124 bệnh viện công lập, bao gồm 106 bệnh viện đa khoa và 18 bệnh viện chuyên khoa, với tổng cộng 30.000 giường bệnh.[66]
Tổng số chi tiêu về y tế tại Hy Lạp là 8,4% GDP vào năm 2015, so với trung bình của Liên minh châu Âu là 9,5%. Hy Lạp có tỷ lệ bác sĩ trên dân số cao nhất của bất cứ quốc gia OECD nào vào năm 2011[67] và tỷ lệ bác sĩ trên người bệnh cao nhất trong Liên minh châu Âu vào năm 2017.[68]
Năm 2015, tuổi thọ trung bình tại Hy Lạp là 81,1 tuổi, cao hơn trung bình của Liên minh châu Âu là 80,6 tuổi.[68] 33% dân số đảoIkaria từ 90 tuổi trở lên[69] và hòn đảo được phân loại là mộtVùng xanh vì có tuổi thọ cao và tỷ lệ ung thư, bệnh tim mạch, bệnh mãn tính thấp.[70]
Hy Lạp là cái nôi củavăn hóa phương Tây.[71][72] Nền dân chủ hiện đại bắt nguồn từ quan niệm của văn hóa Hy Lạp về chính phủ do dân, quyền xét xử thông qua bồi thẩm đoàn và bình đẳng trước pháp luật. Hy Lạp cổ đại tiên phong nhiều lĩnh vực khoa học, bao gồmlogic, sinh học, hình học, khoa học chính trị, địa lý, y học, sử học,[73] triết học,[74] vật lý học và toán học.[75] Ngoài ra, Hy Lạp cổ đại phổ biến nhiều thể loại văn học quan trọng như sử thi, thơ trữ tình, lịch sử, bi kịch, hài kịch và chính kịch. Lý tưởng của văn hóa Hy Lạp về cái đẹp ảnh hưởng sâu đậm đến nghệ thuật phương Tây.[76]
Văn học
Đất nước Hy Lạp có một truyền thống văn học giàu có. Những bộ thiên sử thiIliad vàOdyssey là những tác phẩm văn học lớn đầu tiên của châu Âu. Hy Lạp cũng là nơi khởi nguồn của thể loại thơ trữ tình trong văn học phương Tây hiện đại. Vào thế kỷ VI trước Công nguyên, nhà vănAesop đã viết những câutruyện ngụ ngôn mà ngày nay nổi tiếng toàn thế giới. Đất nước Hy Lạp cũng là nơi ra đời của nghệ thuật sân khấu với những tác phẩm như bộ ba bi kịchOresteia củaAeschylus hay các vở hài kịch của nhà thơAristophanes. Cũng trong thời kỳ này, triết học Hy Lạp đã đạt đến đỉnh cao với những nhà triết học bậc thầy nhưPlaton vàAristotle.
Trong thời kỳByzantine, nền văn học Hy Lạp đã chịu ảnh hưởng của khá nhiều dòng văn hóa khác nhau nhưCơ đốc giáo,La Mã vàphương Đông (tứcBa Tư). Giai đoạn này đánh dấu bởi sự phát triển của những tác phẩm thơ trào phúng.
Sau khi giành lại độc lập vào năm 1821, nền văn học Hy Lạp đã phát triển mạnh với những xu hướng cách mạng và chịu ảnh hưởng củaThời đại Khai sáng. Trongthế kỷ XX, đất nước Hy Lạp đã có rất nhiều nhà văn lớn. Hy Lạp từng có 2 nhà văn đoạt giải thưởngNobel Văn học, đó làGiorgos Seferis vào năm 1963 vàOdysseas Elytis vào năm 1979. Ngoài ra còn có một số nhà văn khác như Nikos Kazantzakis và Vassilis Vassilikos cũng có nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng thế giới.
Kiến trúc
Tu viện Hosios Lukas với kiến trúc Byzantine
Kiến trúcHy Lạp cổ đại đã phát triển rực rỡ với rất nhiều những đền đài, công trình công cộng còn tồn tại đến ngày nay. Thời kỳ này, các công trình được xây dựng chủ yếu bằngđá vôi vàđá hoa cương. Có 3 phong cách kiến trúc Hy Lạp cổ chính với những nét đặc trưng riêng thể hiện trên những cột trụ: phong cáchDoric với cột trụ trơn và khỏe khoắn, phong cáchIonic mềm mại, duyên dáng và phong cáchCorinthian cầu kỳ, trang nhã.[77]
Phong cách kiến trúc Byzantine cũng có ảnh hưởng khá lớn tại Hy Lạp với những công trình kiến trúc như các nhà thờ, tu viện có dạng mái vòm độc đáo. Sau khi Hy Lạp giành được độc lập, trường phái kiến trúc Tân Byzantine được phát triển mạnh. Bên cạnh đó còn có sự phát triển của dòng kiến trúc Tân Cổ điển. Cũng như nhiều quốc gia châu Âu khác, Hy Lạp ngày nay có nhiều công trình mang phong cách hiện đại, đặc biệt là tại những thành phố lớn.
Ẩm thực
Một đĩa bánh baklava
Ẩm thực Hy Lạp rất đa dạng và phong phú, đồng thời chịu ảnh hưởng của nhiều dòng ẩm thực khác nhau như của miền nam nướcPháp,Ý vàTrung Đông.Dầu ôliu là loại hương liệu đặc trưng và có mặt trong hầu hết các món ăn của Hy Lạp. Cây lương thực chủ yếu của Hy Lạp làlúa mì, song bên cạnh đó còn có lúa mạch. Các loại rau xanh được dùng phổ biến tại đây là cà,cà chua,khoai tây,đậu xanh,ớt xanh vàhành.Mật tại Hy Lạp được chế biến chủ yếu từ mật của các loạihoa, đặc biệt là từ họ cam quýt.
Các món ăn của Hy Lạp thường được chế biến với rất nhiều loại hương liệu nhưrau kinh giới,hành,tỏi,thì là,bạc hà,quế,...Thịt cừu vàthịt dê khá phổ biến tại Hy Lạp, nhưngthịt bò thì hiếm hơn. Các móncá cùng rất phổ biến, đặc biệt là tại những vùng duyên hải và đảo của Hy Lạp. Nước này cũng có rất nhiều loạiphó mát được chế biến khác nhau.
Mì trộn rau cosmos.
Các món khai vị thường được phục vụ vớibánh mì vàrượu. Pho mátfeta được làm từ sữa cừu và sữa dê là một món khai vị truyền thống tại nước này. Hy Lạp cũng có rất nhiều món súp nhưavgolemono,fasolada,magiritsa...Baklava là món bánh ngọt phổ biến tại đây, bên cạnh đó có món bánh mìtsoureki được ăn vào dịpLễ Phục sinh. Có rất nhiều món ăn truyền thống của Hy Lạp có nguồn gốc từ nước ngoài.
Thể thao
Hy Lạp là một đất nước có truyền thống về thể thao. Đây là nơi ra đời củaThế vận hội vào năm 776 trước Công nguyên.[78] Vào năm 1896, Thế vận hội hiện đại đầu tiên cũng được tổ chức tại thành phốAthens của nước này.
Đội tuyển bóng rổ quốc gia Hy Lạp được đánh giá là một trong những đội mạnh nhất trên thế giới. Đội tuyển bóng rổ của Hy Lạp đã từng 2 lần vô địch châu Âu vào các năm 1987 và 2005.
^Αποτελέσματα Απογραφής Πληθυσμού - Κατοικιών 2021 [Results of Population-Housing Census 2021] (bằng tiếng Hy Lạp). Piraeus: Hellenic Statistical Authority. ngày 19 tháng 7 năm 2022.Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2024.
^Enyedi, Zsolt; Madeley, John T.S. (ngày 2 tháng 8 năm 2004).Church and State in Contemporary Europe. Routledge. tr. 228.ISBN9781135761417.Both as a state church and as a national church, the Orthodox Church of Greece has a lot in common with Protestant state churches, and even with Catholicism in some countries.
^Giannēs Koliopoulos; Thanos M. Veremis (ngày 30 tháng 10 năm 2002). Greece: The Modern Sequel, from 1831 to the Present. NYU Press. p. 242.ISBN 978-0-8147-4767-4.
^Trần Văn Chánh (2014).Từ điển Hán-Việt — Hán ngữ cổ đại và hiện đại. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. tr. 2435.
^Venizelos 2002, tr. 131–32, 165–72.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFVenizelos2002 (trợ giúp)
^Mavrias 2002, tr. 477–78, 486–87Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFMavrias2002 (trợ giúp)
^Αρχές του Εξωτερικού [Missions Abroad] (bằng tiếng Hy Lạp). Hellenic Republic Ministry of Foreign Affairs.Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2011.
^"Greece".International Religious Freedom Report 2007.United States Department of State, Bureau of Democracy, Human Rights, and Labor. ngày 15 tháng 9 năm 2006.Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2007.
^abEconomou C, Kaitelidou D, Karanikolos M, Maresso A. Greece: Health system review. Health Systems in Transition, 2017; 19(5):1–192.
^"The Island Where People Live Longer".NPR. ngày 2 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2013.Buettner and a team of demographers work with census data to identify blue zones around the world. They found Icaria had the highest percentage of 90-year-olds anywhere on the planet — nearly 1 out of 3 people make it to their 90s.
^William J. Broad (2007).The Oracle: Ancient Delphi and the Science Behind Its Lost Secrets. Penguin Publishing Group. tr. 120.ISBN978-0-14-303859-7.In 1979, a friend of de Boer's invited him to join a team of scientists that was going to Greece to assess the suitability of the ... But the idea of learning more about Greece – the cradle of Western civilization, a fresh example of tectonic forces at ...
^Myres, John.Herodotus, Father of History. Oxford: Clarendon Press, 1953. Web. 25 June 2012.