Nạn diệt chủngHolocaust (từtiếng Hy Lạp:ὁλόκαυστοςholókaustos:hólos, "toàn bộ" vàkaustós, "thiêu đốt"),[3] còn được biết đến với tên gọiShoah (tiếng Hebrew:השואה,HaShoah, "thảm họa lớn"), là mộtcuộc diệt chủng doĐức Quốc xã cùng bè phái tiến hành và dẫn tới cái chết của khoảng 6 triệu ngườiDo Thái bao gồm 3 triệu đàn ông, 2 triệu phụ nữ và 1 triệu trẻ em.[4] Một số nhà sử học sử dụng định nghĩa Holocaust còn bao gồm cả năm triệu nạn nhân không phải Do Thái thiệt mạng vì các cuộcthảm sát của Đức Quốc xã, qua đó nâng tổng số nạn nhân lên khoảng 11 triệu người. Hoạt động tàn sát diễn ra trên toàn Đức Quốc xã vàcác vùng lãnh thổ bị quốc gia này chiếm đóng trên toàn châu Âu.[5]
Trong giai đoạn từ năm 1941 đến năm 1945, người Do Thái đã bị sát hại một cách có hệ thống trong một cuộc diệt chủng có quy mô lớn thuộc nhóm hàng đầu trong lịch sử và nó là một phần của chương trình hành động tổng thể bao quát hơn mà chế độ Quốc xã thực hiện: đàn áp, tiêu diệt những nhóm sắc tộc và chính trị đối lập tại châu Âu.[6] Mọi bộ phận của chính quyền Đức đều tham gia cung ứng hỗ trợ và hành động, điều này đã biến Đế chế Thứ ba thành "một nhà nước diệt chủng".[7]Các thành phần nạn nhân khác bao gồmngười Di-gan,người Slav,tù binh chiến tranh Liên Xô,người Cộng sản,người đồng tính,Nhân chứng Jehovah, vànhững người khuyết tật về tinh thần và thể trạng.[8] Tổng cộng, đã có khoảng 11 triệu người bị sát hại, trong đó bao gồm khoảng một triệu trẻ em Do Thái.[9][10] Bằng việc sử dụng một mạng lưới liên hệ giữa 42.500 cơ sở tại Đức và các vùng lãnh thổ chiếm đóng, Quốc xã tập trung số nạn nhân lại để bắt làmlao động nô lệ, tàn sát, thực thi các hành độngvi phạm nhân quyền khác.[11] Ước tính có khoảng 200.000 cá nhân được cho là thủ phạm gây ra Holocaust.[12]
Sự khủng bố và diệt chủng được tiến hành theo từng giai đoạn, mà đỉnh cao nhất được gọi là "Giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do Thái" (die Endlösung der Judenfrage), một kế hoạch tận diệt người Do Thái ở châu Âu. Ban đầu chính quyền Đức cho thông qua các đạo luật nhằm lọc bỏ người Do Thái ra khỏi xã hội, tiêu biểu nhất làLuật Nuremberg năm 1935. Kể từ năm 1933, một mạng lưới cáctrại tập trung và tiếp theo sau sự bùng nổ củaChiến tranh thế giới thứ hai vào năm 1939 là cáckhu Do Thái, được thiết lập. Trong năm 1941, sau khi chinh phạt được vùng lãnh thổ mới ở Đông Âu, Quốc xã đã sử dụng các đơn vị bán quân sự chuyên biệt gọi làEinsatzgruppen để tàn sát khoảng hai triệu người Do Thái và những người thuộc phe kháng chiến bằng phương thức chủ đạo là xử bắn hàng loạt. Tới thời điểm cuối năm 1942, số nạn nhân lúc này được vận chuyển đều đặn trên những chuyến tàu chở hàng đến cáctrại hủy diệt, nơi mà những người sống sót sau chuyến hành trình đến trại sẽ bị sát hại một cách có hệ thống trong các phòng hơi ngạt. Chiến dịch tàn sát tiếp tục diễn ra cho đến khi chiến tranh thế giới thứ hai tại chiến trường châu Âu chấm dứt vào tháng 4-5 năm 1945.
Thuật từHolocaust bắt nguồn từ tiếng Hi Lạphalekaustann (ηολόκαυστον), nghĩa là "thiêu (kaustos) rụi (holos)" sinh tế hiến dâng cho một thần linh. Theo Từ điển tiếng Anh Oxford, từ đầu năm1942Holocaust đã được dùng để chỉ cách Hitler đối xử với người Do Thái, dù nó không được xem là cách dùng chuẩn mực mãi cho đếnthập niên 1950. Đến cuốithập niên 1970, thuật từ này mang ý nghĩa qui ước được dùng để chỉ cuộc tàn sát diệt chủng của Quốc xã. Trong nghĩa hẹp, nó cũng được sử dụng để nói đến sự hủy diệt mà người Do Thái ởchâu Âu phải gánh chịu. Một thuật từ trongKinh Thánh,Shoa (שואה), đọc làShoah hoặcSho’ah, trongtiếng Hebrew nghĩa là "thảm họa", kể từ đầu thập niên 1940 trở nên thuật từ chuẩn trongtiếng Hebrew để chỉ cuộc thảm sát này.[16]
Vụ thảm sát Holocaust thực hiện bởi Đức Quốc xã có những đặc điểm thường được dùng để phân biệt với các cuộc tàn sát diệt chủng khác đã từng xảy ra trong lịch sử.
Một trong những đặc điểm của Holocaust là tính hiệu quả cao trong những nỗ lực có hệ thống với quy mô công nghiệp, nhằm đưa con số nạn nhân bị tập trung và sát hại đến mức cao nhất bằng cách sử dụng mọi nguồn lực và kỹ thuật hiện có trong nước. Lúc ấy,Đức là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực nhưkỹ thuật,công nghiệp,cơ sở hạ tầng,nghiên cứu,giáo dục, tính hiệu quả của guồng máy hành chính...
Chẳng hạn như các bản danh sách những người được xem là đối tượng được thiết lập và lưu giữ bởi guồng máy của công ty thống kêDehomag, người ta cũng viết những bản báo cáo chi tiết về các vụ hành quyết. Khi bị đưa vào các trại tử hình, tù nhân bị buộc phải giao nộp toàn bộ tài sản cá nhân cho Quốc xã, chúng được phân loại, đánh số và người tù được nhận một biên nhận về tài sản đã giao nộp, với mục đích đánh lừa nạn nhân, tạo cho họ cảm giác an toàn là sẽ có cơ hội nhận lại tài sản và đồ dùng cá nhân của mình.
Tù nhân trại tập trung Mauthausen ở Ebensee, Áo, được binh sĩ Mỹ giải thoát ngày5 tháng 5 năm1945.
Ngoài ra, những nỗ lực đáng kể được thực hiện suốt trong thời gian xảy ra vụ Holocaust nhằm tìm kiếm các phương tiện hiệu quả hơn để có thể sát hại nhiều người hơn. Những cuộc hành quyết ban đầu thực hiện bởi binh sĩ Đức dùng súng hạ sát hàng ngàn người Do Thái ởBa Lan,Ukraina vàBelarus gây ra nhiều phản ứng về tình trạng căng thẳng và suy sụp tinh thần trong vòng binh lính Đức. Các sĩ quan báo cáo với thượng cấp của họ rằng phương cách giết người mặt đối mặt đã gây ra những ảnh hưởng tâm lý tiêu cực đối với thuộc cấp của họ. Vì muốn tận diệt dân tộc Do Thái, chính quyền Đức Quốc xã quyết định tìm kiếm những giải pháp kỹ thuật, khởi đầu với những thử nghiệm trong sử dụng chất nổ và độc dược.
Trong tác phẩmRussia’s War, nhà sử họcngười AnhRichard Overy đã miêu tả quá trình Quốc xã tìm kiếm các phương pháp hiệu quả hơn để sát hại các nạn nhân. Năm1941, sau khi chiếm đóng Belarus, họ sử dụng các bệnh nhân tâm thần trong các dưỡng trí viện ởMinsk làm vật thí nghiệm. Lúc đầu, những người này bị buộc đứng sát nhau theo hàng dọc và bị giết bằng cách bắn xuyên táo, nhưng phương pháp này quá chậm. Rồi họ sử dụng chất nổ, nhưng số người chết không nhiều trong khi nhiều người khác chỉ bị mất tay và chân. Sau cùng, người Đức chọn cách dùng súng máy để giết hết số bệnh nhân tâm thần này. Tháng 10 năm 1941, tạiMogilev, Quốc xã thử nghiệm một loại hình khác,Gaswagen tức "xe hơi ngạt". Đầu tiên, họ sử dụng một xe quân sự hạng nhẹ, nhưng phải mất 30 phút mới giết chết nạn nhân; kế đó, họ dùng một xe tải lớn hơn, nhét đầy người vào trong và chỉ cần 8 phút để kết thúc mạng sống tất cả người trong xe.
Số lượng lớn các thi thể cũng gây khó khăn trong việc tìm chỗ chứa xác. Lúc đầu giải pháp thiêu xác được xem là bất khả thi cho đến khi họ khám phá ra rằng nếu có thể giữ các lò thiêu xác ở nhiệt độ thích hợp thì mỡ của các thi thể sẽ giúp lò thiêu vận hành liên tục. Khi vấn đề kỹ thuật này đã được giải quyết, Quốc xã đẩy mạnh kế hoạch tàn sát tập thể đến mức độ cao nhất.
Cuộc tàn sát được tiến hành có hệ thống trên toàn bộ lãnh thổ bị Quốc xã chiếm đóng, bao gồm 35 quốc gia châu Âu có cộng đồng người Do Thái, và những nạn nhân khác bị đem đến cáctrại lao động tại một số nước, và đến các trại hành quyết tại những nơi khác. Những vụ hành quyết tập thể xảy ra nhiều nhất tạiĐông Âu vàTrung Âu, năm1939, trong số hơn 7 triệu người Do Thái thiệt mạng, có khoảng 5 triệu người bị giết tại đây, trong đó có 3 triệu người chết ở Ba Lan và hơn 1 triệu người chết ở Liên Xô. Hàng trăm ngàn người khác bị giết ởHà Lan,Pháp,Bỉ,Nam Tư vàHi Lạp.
Có những chứng cứ cho thấy Quốc xã đã lập kế hoạch tiến hành "giải pháp tối hậu" tại những quốc gia khác nếu như chúng bị chiếm đóng nhưAnh vàIreland. Những vụ tàn sát vẫn tiếp diễn trên các vùng đất khác nhau dưới sự kiểm soát của Quốc xã cho đến khiChiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, khi quân độiĐồng Minh tiến vào nước Đức và buộc Quốc xã đầu hàng vào tháng 5 năm1945.
Đội viên Đội Hành quyết D đang nhắm bắn một nạn nhân ngồi bên mép hố chôn tập thể tại Vinnitsa,Ukraina, năm 1942.
Cuộc thảm sát được tiến hành mà không có ngoại lệ nào dành cho trẻ em hoặc trẻ sơ sinh; thường thì nạn nhân bị tra tấn trước khi bị giết. Quốc xã tiến hành những cuộc thí nghiệm độc dược trên tù nhân, kể cả trẻ em. Bác sĩJosef Mengele, sĩ quan quân y tại trại Auschwitz và là sĩ quan quân y trưởng tại trạiBirkenau, được biết đến là "Sứ giả Thần Chết" qua những thí nghiệm y khoa tiến hành trên tù nhân như chích thuốc nhuộm vào mắt tù nhân để đổi màu mắt.[17]Aribert Heim, một bác sĩ khác làm việc tại trạiMauthausen, được gán cho biệt danh "Bác sĩ Thần Chết".
Tại các trại tập trung, lính canh đều đánh đập và tra tấn tù nhân mỗi ngày. Phụ nữ bị buộc vào các nhà thổ phục vụ línhSS. Tù binhNga bị dùng làm vật thí nghiệm như bị nhúng vào nước đá hoặc bị nhốt trong phòng áp lực, rút hết không khí để xem họ có thể kéo dài sự sống bao lâu nhằm tìm ra cách bảo vệ phi công Đức.
Những ngườiđồng tính luyến ái nam chịu đựng nhiều sự ngược đãi thô bạo trong các trại tập trung, không chỉ bởi lính Đức mà còn bởi những người tù khác, nhiều người đồng tính bị đánh đập đến chết. Lính Đức cũng thường dùng những người đồng tính nam làm bia tập bắn, họ bị buộc phải mặc áo có hìnhtam giác hồng, và lính Đức nhắm vào đó mà nổ súng.
Trẻ em được phân loại thành hai nhóm: đủ sức làm việc và không đủ sức. Trẻ em đủ sức khỏe bị xăm số tù và mặc đồng phục. Chúng bị gửi đến làm việc tại các xưởng đạn, thường khó sống sót quá vài tuần do khối lượng công việc quá sức và do thức ăn thiếu thốn, cũng như điều kiện vệ sinh tồi tệ trong trại.
Trẻ không đủ sức làm việc, hầu hết là trẻ nhỏ, bị đưa vào phòng hơi ngạt. Có một số trẻ nhỏ, nhất là trẻ sinh đôi, bị giao cho các "bác sĩ tử thần" trong trại để sử dụng trong các thí nghiệm y khoa.
Tại trại tập trung Auschwitz, Bác sĩJosef Mengele nổi tiếng do tiến hành các thí nghiệm y khoa trên cơ thể người sống, như nhốt tù nhân vào phòng áp suất, dùng họ để thử các loại dược phẩm khác nhau, bắt họ chịu rét cóng đến chết, cũng như tiến hành một số tổn thương chết người khác trên người tù. Mengele đặc biệt ưa thích làm thí nghiệm với người sinh đôi, dân du mụcDi-gan, người lùn và trẻ nhỏ.
Hầu hết những thí nghiệm của Mengele đều ít có giá trịkhoa học, chẳng hạn như những cố gắng biến đổi màu mắt bằng cách tiêm hóa chất vào mắt trẻ em, dùng phẫu thuật để đoạn chi và những phương pháp mổ xẻ tàn bạo khác.
Không thể nào biết đầy đủ về những thí nghiệm của Mengele. Hai xe tải chứa đầy những ghi chép của Mengele gửi Bác sĩOtman von Verschuer ở Viện Kaiser Wilhelm đã bị huỷ.[18] Những nạn nhân còn sống sót sau khi thí nghiệm đều bị giết chết.
Mengele thích sử dụng trẻ em thuộc chủng tộc Roma trong các cuộc thí nghiệm, mang cho chúng kẹo và đồ chơi rồi đưa chúng vào phòng hơi ngạt. Chúng gọi Mengele là "chú Mengele."[19] Một nữ tù người Do Thái tại trại Auschwitz chăm sóc cho 50 cặp trẻ sinh đôi người Roma thuật lại:
Tôi đặc biệt nhớ đến trường hợp một cặp sinh đôi tên Guido và Ina, chúng khoảng bốn tuổi. Vào một ngày, Mengele đến đem chúng đi. Khi được trả về, chúng ở trong tình trạng kinh hoàng: bị khâu dính lại với nhau ở phần lưng, trông giống như cặp sinh đôi Siam.[20]Vết thương bị nhiễm trùng và rỉ mủ. Chúng kêu khóc cả ngày lẫn đêm. Cha mẹ chúng – tôi nhớ tên người mẹ là Stella – phải cố xoay xở một ít morphine để giết con mình nhằm giải thoát chúng khỏi đau đớn.[19]
Bản tính tàn ác của Mengele không phải là một ngoại lệ. Tại các trại tập trung nhưDachau,Buchenwald,Sachsenhausen vàNatzweiler đều có các bác sĩ Quốc xã tham gia vào các cuộc thí nghiệm trên cơ thể người sống.
Einsatzkommando hành quyết ngườiBa Lan -Leszno, tháng 10 năm 1939
Theo tiêu chí của Viện Thảm họa và Chủ nghĩa Anh hùng Yad Vashem của Israel, nạn nhân của Shoah là những người "sống trong các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng dưới chế độ Đức Quốc xã và bị tiêu diệt / bị giết trong các vụ xả súng hàng loạt, trại giam, nhà tù, nơi trú ẩn, rừng và bị giết trong nỗ lực phản kháng (có tổ chức hoặc không), với tư cách là thành viên của phong trào du kích, hoạt động ngầm, nổi dậy, trong nỗ lực vượt biên bất hợp pháp hoặc chạy trốn, hoặc những người giúp đỡ họ (bao gồm cả người dân địa phương hoặc các thành viên). Ngoài ra, họ bao gồm những người "đã ở trong các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng và bị giết trong cuộc đối đầu trực tiếp với các lực lượng vũ trang của Đức và các đồng minh, do hậu quả của các vụ ném bom, chuyến bay, trong cuộc di tản năm 1941-42".
Mặc dù phần lớn nạn nhân Holocaust là người Do Thái, Đức quốc xã cũng sát hại nhiều người thuộc các chủng tộc bị xem là hạ đẳng, đáng ghét hoặc nguy hiểm, gồm có dân Ba Lan và các chủng tộcSlav khác như người Nga, Belarus, Serb, Roma (còn gọi là Di-gan), ngườichâu Phi,châu Á, và những người không thuộc "chủngAryan"; người mắc bệnh tâm thần vàngười khuyết tật; người đồng tính luyến ái; những người bất đồng chính kiến hoặc bất đồng tôn giáo như người Cộng sản, thành viên nghiệp đoàn, thành viên tổ chứcFreemansonry và tín hữu Nhân Chứng Giê-hô-va.
Nạn nhân của vụ thảm sát thường bị Quốc xã miêu tả là "đáng ghét", "kẻ thù của nhà nước", "nhân tố phi xã hội" và "suy đồi", những tên gọi đồng nghĩa với thuật ngữUntermensch (người hạ đẳng).
Ngày30 tháng 1 năm1933,Đảng Quốc xã củaAdolf Hitler lên nắm quyền, hầu như ngay lập tức tiến hành các cuộc bức hại và trục xuất 525.000 người Do Thái đang sinh sống tại Đức. Trong quyểnMein Kampf (năm1925), Hitler không giấu giếm sự căm ghét đối với người Do Thái, và hé lộ những dấu hiệu về ý định truất bỏ họ khỏi đời sống chính trị, trí thức và văn hóa Đức.
Những nhà trí thức Do Thái là những người đầu tiên rời bỏ nước Đức. Nhà triết họcWalter Benjamin đếnParis ngày18 tháng 3 năm 1933. Nhà vănLeon Feuchtwanger đếnThụy Sĩ. Nhà chỉ huy dàn nhạcBruno Walter vội đào thoát khi biết tin sảnh đường củaDàn nhạc Giao hưởng Berlin sẽ làm mồi cho lửa nếu ông tiếp tục làm việc tại đây. Ngày30 tháng 1 năm 1933,Albert Einstein đang ởHoa Kỳ trong một chuyến tham quan; sau đó ông đến Ostende ởBỉ, nhưng không bao giờ trở lại nước Đức, ông lên tiếng cáo buộc tình hình ở Đức là "một sự bệnh hoạn tinh thần của quần chúng"; Einstein bị trục xuất khỏi Hội Kaiser Wilhelm và Hàn lâm viện Khoa học Phổ, quốc tịch của ông cũng bị tước bỏ.[21]Saul Friedländer thuật lại rằng khiMax Liebermann - có lẽ là họa sĩ tài danh nhất nước Đức, cũng là chủ tịch danh dự Hàn lâm viện Nghệ thuật Phổ - từ nhiệm, không ai trong số các đồng nghiệp tìm đến bày tỏ sự đồng cảm, hai năm sau ông chết trong khi bị phát vãng. Năm 1943, khi cảnh sát đem theo cáng để trục xuất bà vợ góa 85 tuổi của Libermann đang nằm liệt giường, bà đã dùng thuốc ngủ quá liều để tự kết liễu đời mình chứ không chịu để bị đem đi.[22]
Suốt trongthập niên 1930, các quyền pháp lý, kinh tế, và xã hội của người Do Thái dần dà bị hạn chế. Theo Friedländer, đối với Quốc xã, sức mạnh của nước Đức bắt nguồn từ "sự tinh tuyền của dòng máu Đức" và "sự bắt rễ sâu trong mảnh đất Đức thiêng liêng".[23] Năm 1933, một loạt các đạo luật được thông qua nhằm trục xuất người Do Thái khỏi những khu vực quan trọng: luật dịch vụ dân sự, luật thầy thuốc và luật nông trang cấm người Do Thái sở hữu nông trại hay hoạt động nông nghiệp, luật sư Do Thái bị loại khỏi luật sư đoàn. Tại Dresden, các luật sư và thẩm phán người Do Thái bị lôi ra khỏi văn phòng và tòa án, rồi bị hành hung.[24] Người Do Thái bị đuổi khỏi trường học và các viện đại học, cũng như bị loại bỏ khỏi hội nhà báo.[23]
Năm 1935, Hitler giới thiệu bộ luật Nürnberg tước quyền công dân và tất cả quyền dân sự của người Do Thái. Trong bài diễn văn của mình, Hitler nói nếu bộ luật này không giải quyết nổi "vấn nạn Do Thái", thì cần phải làm luật giao cho Đảng Quốc xã đưa ra giải pháp tối hậu (Endlösung).[25] Thuật từEndlösung trở thành cách nói chuẩn của Quốc xã khi ám chỉ biện pháp tuyệt diệt dân Do Thái.[26]
Vấn đề xác định biện pháp đối với người Do Thái trở nên cấp bách khi Đức Quốc xã chiếm đóng phía tâyBa Lan vào tháng 9 năm1939; khu vực này là nơi sinh sống của khoảng hai triệu người Do Thái. Cánh tay mặt củaHeinrich Himmler,Reinhard Heydrich, đề xuất tập trung tất cả người Do Thái vào các khu biệt cư (ghetto) ở các thành phố lớn, và buộc họ làm việc phục vụ cho công nghiệp chiến tranh Đức. Cần phải đặt các khu biệt cư gần các ga hỏa xa đầu mối, theo lời của Heydrich, để "có thể dễ dàng xử lý sau này".[27] Trong lần thẩm vấn năm1961, Adolf Eichmann làm chứng rằng "xử lý" nghĩa là "tàn sát".[27]
Nhiều nhà nghiên cứu xem vụ bạo động bài Do Thái mệnh danhKristallnacht (Đêm Kính vỡ), ngày9 tháng 11 năm1938, là thời điểm khởi phát vụ Holocaust. Trên khắp nước Đức, người Do Thái bị tấn công và tài sản của họ bị cướp phá. Khoảng 100 người Do Thái bị giết, và 30.000 người khác bị đưa vào các trại tập trung, có hơn 7.000 cửa hiệu và 1 668 hội đường của người Do Thái bị tàn phá hoặc bị hủy diệt hoàn toàn. Những cảnh tương tự cũng diễn ra tạiÁo, đặc biệt là ởViên.
Nhiều vụ cướp bóc tàn sát người Do Thái xảy ra ở các khu dân cư trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai, một số do Quốc xã kích động, phần còn lại do tự phát.
Sau cuộc tuyển cử 1932, khi biết rằng không thể bảo đảm đa số phiếu, giới lãnh đạo Quốc xã quyết định dựa vào những phương tiện khác để tiếp tục nắm giữ quyền lực. Khi sắp đến cuộc bầu cử năm 1933, Quốc xã bắt đầu đẩy mạnh những hoạt động bạo lực để phá hoại phe đối lập. Cùng lúc, với sự hợp tác từ chính quyền các địa phương, Quốc xã thiết lập các trại tập trung trong nước Đức. Một trong những trại đầu tiên là Dachau, mở cửa vào tháng 3 năm 1933. Lúc đầu chúng là những địa điểm giam cầm, tra tấn, và sát hại các tù chính trị như đảng viên cộng sản và dân chủ xã hội. Dần dà, Quốc xã cho cầm giữ tại đây người Do Thái, dân Di-gan, tín hữu Nhân Chứng Giê-hô-va, người đồng tính, nhà báo và những người "đáng ghét" khác.
Những trại giam trong thời kỳ đầu này – thường là ở tầng hầm hoặc nhà phố - dần dần trở thành những trại giam trực thuộc trung ương mọc lên tại khu ngoại vi các đô thị để tránh sự dòm ngó. Năm 1942, riêng trong vùng lãnh thổ bị Quốc xã chiếm đóng tại Ba Lan, có sáu trại hành quyết lớn. Sau năm 1939, lúc khởi phát chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều trại tập trung được xây dựng để giam cầm những kẻ thù phi chính trị của Quốc xã, trong đó có người Do Thái và tù binh chiến tranh, những người này hoặc bị giết hoặc trở thành lao động khổ sai, luôn luôn chịu đói và bị tra tấn.
Trong thời kỳ chiến tranh, trại tập trung dành cho dân Do Thái và những "người đáng ghét" mọc lên khắp mọi nơi ở châu Âu, lúc này những trại tân lập được xây dựng kế cận các khu trung tâm có nhiều "người đáng ghét", thường tập trung vào những khu vực có đông người Do Thái, giới trí thức Ba Lan, người cộng sản, hoặc người Roma và Sinti (Di-gan). Ngay trên đất Đức cũng có các trại tập trung, nhưng đa phần đều nằm trong lãnh thổ bị Đức chiếm đóng của Ba Lan. Việc vận chuyển tù nhân thường diễn ra trong tình trạng khủng khiếp, tù nhân bị nhồi nhét vào những toa hàng đóng kín, nhiều người chết trên đường đi.
Khi nhập trại, tù nhân bị buộc phải xăm trên mình số tù.[28] Những người còn đủ sức phải làm việc 12–14 giờ mỗi ngày. Luôn luôn có tập hợp điểm danh trước khi bắt đầu và sau khi kết thúc những giờ lao động khổ sai. Những lần tập hợp điểm danh này kéo dài hàng tiếng đồng hồ, ngay cả lúc trời mưa hoặc tuyết rơi, nhiều tù nhân chết vì bị cảm lạnh.[29]
Giữa hai thời điểm nhập trại và chết, người tù chịu đựng nhiều hình thức nhục mạ và tra tấn tinh thần. Họ thường bị đánh đập, roi vọt, trói giật tay treo trên sà ngang, rồi bị bắn chết một cách ngẫu hứng.
Các loại nhục hình đan xen lẫn nhau tạo nên một trải nghiệm kinh hoàng cho những người bị giam cầm trong trại. Nhiều người mong đợi cái chết như một sự giải thoát.
Nhiều nhà nghiên cứu xem thời điểm khởi đầu cuộc thảm sát là lúc bùng nổ những cuộc bạo động chống người Do Thái "Đêm Kính vỡ" (Kristallnacht) vào ngày9 tháng 11 năm 1938. Trên khắp nước Đức, dân Do Thái bị tấn công và bị cướp phá tài sản. Có khoảng 100 người bị giết và 30.000 người khác bị đưa vào các trại tập trung, hơn 7.000 cửa hiệu và 1.574 hội đường của người Do Thái (hầu hết hội đườngDo Thái giáo ở Đức) bị đập phá hoặc bị hủy diệt hoàn toàn. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở Wien vào cùng một thời điểm.
Nhiều cuộc tàn sát thực hiện bởi cư dân địa phương xảy ra suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, một số do sự khích động của Quốc xã, số khác do tự phát, trong đó có vụ thảm sát xảy ra tạiRomânia ngày30 tháng 6 năm1941 với 14.000 người Do Thái bị cho là mất mạng do tay cảnh sát và người dân Romania, và vụ thảm sátJedwabne với con số nạn nhân từ 380 đến 1.600 người Do Thái bị giết bởi người Ba Lan.
Những hồ sơ còn lưu giữ của Văn phòng An ninh Đức (Reichsicherheeitshauptamt) cho thấy có kế hoạch ngược đãi thành viên "hội kín" Tam Điểm. Khó biết được con số chính xác, nhưng các ước tính cho rằng có khoảng từ 80.000 đến 200.000 người Tam Điểm bị thủ tiêu bởi Quốc xã.
Chương trìnhT-4 Euthanasia được thành lập nhằm "bảo vệ tinh thuần khiết di truyền" của dân Đức bằng cách giết chết các công dân Đức dị dạng, tật nguyền, khiếm khuyết hoặc mắc bệnh tâm thần. Từ năm 1939 đến 1941, con số nạn nhân của chương trình này vượt quá 200.000 người.
Người Đức đến, toàn là cảnh sát, họ bắt đầu đập cửa từng nhà: "Raus, raus, raus, Juden raus." … Một đứa bé kêu khóc... Những đứa khác khóc theo. Bà mẹ vội tiểu vào tay mình rồi cho đứa bé uống để ngừng khóc... [Khi cảnh sát đi rồi], tôi bảo các bà mẹ bước ra. Một đứa bé đã chết... vì quá sợ hãi, người mẹ đã làm con mình ngạt thở.
”
—Abraham Malik, thuật lại những điều ông chứng kiến ở khu biệt cưKovno.[30]
Sau khi chiếm đóng Ba Lan, Quốc xã bắt đầu thiết lập những khu biệt cư (ghetto) dành cho người Do Thái (một số cho người Roma và Sinti) cho đến khi họ bị đưa đến những trại tử thần. Rộng lớn nhất trong số này là khu biệt cưWarszawa có 380.000 cư dân, đứng thứ nhì là khu biệt cưŁódź, cầm giữ 160.000 người; ngoài ra còn có những khu biệt cư được thiết lập ở nhiều thành phố khác nhau. Các khu biệt cư được thiết lập trong năm 1940 và 1941, hầu như ngay lập tức chật cứng tù nhân; mặc dù khu biệt cư Warszawa chứa 30% dân số thành phố Warszawa, nó chỉ chiếm 2,4% diện tích thành phố, tính trung bình mỗi phòng trong khu biệt cư chứa 9,2 người ở. Từ năm 1940 đến 1942, trong những khu biệt cư các loại bệnh tật (nhiều nhất là sốt thương hàn) và đói kém cướp mạng sống hàng trăm ngàn người Do Thái.
Ngày19 tháng 7 năm 1942,Heinrich Himmler ra lệnh trục xuất người Do Thái khỏi các khu biệt cư và mang họ đến những trại tử thần. Ngày22 tháng 7 năm 1942, bắt đầu trục xuất các cư dân ở khu biệt cư Warszawa; trong 52 ngày kế tiếp (đến ngày12 tháng 9 năm 1942) chỉ riêng từ Warszawa có đến khoảng 300.000 người được vận chuyển bằng tàu hỏa đến trại hành quyết Treblinka. Nhiều khu biệt cư khác hoàn toàn vắng bóng người. Cuộc nổi dậy đầu tiên xảy ra trong khu biệt cư vào tháng 9 năm 1942 tạiŁachwa, một thị trấn miền đông nam Ba Lan. Trong năm 1943, có một vài cuộc nổi dậy có vũ trang bùng nổ trong các khu biệt cư lớn hơn như tại các khu biệt cư Warszawa vàBialystok, tất cả đều bị dập tắt bởi quân đội Quốc xã, những người Do Thái còn lại trong trại hoặc bị hành quyết tại chỗ hoặc bị đưa đến các trại hành quyết.[31]
Dân Do Thái trong thành phố Kiev và vùng phụ cận! Thứ Hai, ngày 29 tháng 9, phải tập trung vào lúc 8 giờ sáng, đem theo vật dụng cá nhân, tiền, giấy tờ, tư trang, áo lạnh tại Đường Dorogozhitskaya gần Nghĩa trang Do Thái. Ai không đến sẽ bị trừng phạt bằng cái chết.
”
—Lệnh tập trung tại Kiev, khoảng 26 tháng 9 năm 1941.[32]
Có khoảng 1,6 triệu người Do Thái bị giết chết bởi Quốc xã và những người cộng tác trong những cuộc hành quyết ngoài trời, nhất là trong năm 1941 trước khi thiết lập những trại tập trung. Trong thời gian xâm lăng Liên Xô, có hơn 3.000 đội hành quyết đặc biệt (được tổ chức thành bốn lực lượng đặc nhiệm –Einsatzgruppen) theo chân quân đội Quốc xã và tiến hành những vụ hành quyết tập thể mà nạn nhân là người Ba Lan, các viên chức Cộng sản và dân Do Thái sống trong lãnh thổ Liên Xô.
Theo lời của Otto Ohlendorf khi bị đem ra xét xử, "Einsatzgruppen có nhiệm vụ bọc hậu cho quân đội bằng cách áp dụng các biện pháp như tàn sát người Do Thái, dân Di-gan, các viên chức Cộng sản, và bất cứ ai tỏ ra nguy hiểm cho nền an ninh". Trong thực tế, nạn nhân của họ đa phần là dân thường người Do Thái (không có thành viên nào củaEinsatzgruppen bị giết khi thi hành nhiệm vụ). Đến tháng 12 năm 1941, bốn độiEinsatzgruppen báo cáo số người họ sát hại lần lượt là 125.000, 45.000, 75.000, và 55.000 – tổng cộng là 300.000 – thường thì họ nhắm bắn hoặc ném lựu đạn vào hố tập thể bên ngoài các thị trấn.
Vụ tàn sát người Do Thái sinh sống ởLiên Xô diễn ra trong một khe núi gọi làBabi Yar bên ngoàiKiev, có 33 771 người Do Thái bị sát hại chỉ trong một cuộc càn quét từ 29 đến 30 tháng 9 năm 1941. Thiếu tướngFriedrich Eberhardt, chỉ huy trưởng quân sự,SS-Obergruppenführer Friedrich Jeckeln, chỉ huy trưởng cảnh sát, và Otto Rasch, tư lệnhEinsatzgruppe C là những người ra lệnh tiến hành cuộc tàn sát được phối hợp bởi các lực lượngSS,SD và an ninh, với sự hỗ trợ của cảnh sátUkraina.
Vào thứ Hai, dân Do Thái ở Kiev bị tập trung tại một nghĩa trang, chờ đưa lên tàu hỏa. Số người tập trung khá đông gồm đàn ông, đàn bà, và trẻ em nên không ai biết điều gì sẽ xảy ra cho đến khi quá trễ: đến lúc họ nghe tiếng súng máy khai hỏa thì không ai còn có cơ hội trốn thoát. Tất cả bị dẫn vào một con rãnh hẹp theo mỗi nhóm mười người, rồi bị bắn. Một tài xế xe tải kể lại:
Lần lượt từng người một bị lột bỏ hành lý, rồi áo khoác, giày, áo trong, và cả đồ lót… Sau khi đã trần truồng, họ bị dẫn vào hẻm núi khoảng 150 m dài, 30 m ngang, và sâu 15 m… Khi đến đáy hẻm núi,Schutzpolizei bắt họ nằm trên lớp người vừa bị hành quyết trước đó… Xác chết xếp thành nhiều lớp. Một tay súng cầm súng máy đến bắn từng người vào cổ… Tôi thấy những xạ thủ đứng trên các lớp thi thể nhắm bắn từng người một…Một tay súng bước qua các xác chết để nhắm vào một người đang nằm kế đó, và bắn người ấy.[32]
Tháng 8 năm 1941, Himmler đếnMinsk, đích thân chứng kiến vụ hành quyết 100 người Do Thái bên ngoài thành phố.SS-Obergruppenführer Karl Wolff ghi lại trong nhật ký, "Mặt Himmler tái mét, móc vội khăn tay ra lau mặt khi óc của nạn nhân văng vào mặt ông ấy, rồi nôn thốc tháo."
Viện Bảo tàng Holocaust Hoa Kỳ thuật lại câu chuyện của một nạn nhân củaEinsatzgruppen may mắn còn sống sót khi đội này sát hại 1.600 người Do Thái vào ngày6 tháng 4 năm1942 tại Piryatin, Ukraine, tức là ngày thứ hai củaLễ Vượt qua:
Tôi chứng kiến cuộc tàn sát. Lúc 5 giờ chiều phát ra mệnh lệnh, "Lấp đầy các hố." Tiếng gào thét và rên rỉ vọng lên từ đáy hố. Đột nhiên, tôi thấy người hàng xóm Ruderman ngoi lên từ mặt đất... Đôi mắt của anh đầy máu, kêu la: "Giết tôi đi!"... Một phụ nữ gục chết dưới chân tôi. Một bé trai năm tuổi từ dưới xác mẹ bò ra và bắt đầu kêu khóc thảm thiết. "Mẹ ơi!". Đó là tất cả những gì tôi nhìn thấy, trước khi bất tỉnh.[33]
Một đứa bé nằm chết trên đường phố trongGhetto Warsaw. Ở đây, chỉ trong năm 1941, có 43 000 người chết vì đói và bệnh tật.
Đối tượng ban đầu là người Ba Lan, trong đó có 30.000 nhà trí thức và chính trị gia bị vây bắt, 7.000 người trong số họ bị hành quyết. Đến mùa hè năm 1941, các đội hành quyết quay sang tìm giết người Do Thái, khởi đầu với vụ hành quyết 2.000 người Do Thái tạiBialystok ngày27 tháng 6 năm 1941, sau đó con số nạn nhân gia tăng mau chóng. Ngày26 tháng 6, các lực lượng SS Đức hạ sát 1.500 người Do Thái. Từ ngày30 tháng 6 đến3 tháng 7 năm 1941, 4.000 người Do Thái thiệt mạng bởi tay những người Ukraina cộng tác với Đức. Từ tháng 9 cho đến cuối năm 1941, một chuỗi các vụ tàn sát tập thể được tiến hành trên khắp Ba Lan, Litva, Ukraina và Latvia: hơn 33.000 người Do Thái mất mạng tạiBabi Yar, 25.000 người khác bị giết bởi Quốc xã Latvia (Arjas Commando), hơn 36.000 người chết tạiOdessa bởi lực lượng Romania, 19.000 người tại Pháo đài số chín ởKaunas, và 40.000 (đến năm 1944, con số này là 100.000) bị hành quyết bởi SS Đức. Trong vòng năm tháng, tại châu Âu mỗi tháng có khoảng 100.000 người Do Thái bị hành quyết. Đến cuối năm 1943, có thêm 900.000 người Do Thái bị giết theo cách này, nhưng tiến độ này vẫn bị xem là chậm đối với giới lãnh đạo Quốc xã, nên đến cuối năm 1941 đầu năm 1942 họ cho tiến hành Giải pháp Tối hậu, nhằm tận diệt người Do Thái tại châu Âu.
Người Serb cũng là nạn nhân của chính sách diệt chủng của Nhà nước Độc lậpCroatia (Nezavisna Država Hrvatska – NDH), chính phủ bù nhìn thân Quốc xã năm 1941. Cuộc tàn sát được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau: thiêu sống người Serb sau khi dồn họ vào các nhà thờ; hành quyết bởi những đội tử thần, thường là một nhóm ba người, ban đêm lùng sục khắp các ngôi làng. Họ thường lấp đầy những hố sâu (foiba) bằng những người Serb còn sống bị trói với nhau bằng dây kẽm gai. Những đội tử thần thích thực hành những phương pháp tra tấn và hành quyết tàn bạo như móc mắt hoặc cắt cổ, và treo nội tạng của nạn nhân trên mái nhà.
Từ năm 2004,Đề án Ukraina củaLinh mụcPatrick Desbois đã tìm ra hơn 500 ngôi mộ tập thể trong các vùng quê ở Ukraina chứa thi thể những người Do Thái bị bắn bởi các đội tử thần. Người ta tin rằng chỉ riêng trong lãnh thổ Ukraina có hơn 1.700 ngôi mộ tập thể.
Khi làm chứng tạiNuremberg ngày15 tháng 4 năm1946, Rudolf Höß, một chỉ huy ở Auschwitz, thuật lại rằng đích thânHeinrich Himmler ra lệnh cho ông chuẩn bị trại Auschwitz để tiến hành "giải pháp tối hậu":
Mùa hè năm 1941, tôi được gọi về Berlin đến trình diệnReichsfuehrer SS Himmler để nhận lệnh. Ông ấy bảo tôi – tôi không nhớ chính xác từng chữ - rằngFuehrer chỉ thị tiến hành giải pháp tối hậu nhằm giải quyết vấn đề Do Thái. Chúng ta, lực lượng SS, phải thực thi mệnh lệnh. Nếu không, sau này dân Do Thái sẽ hủy diệt dân tộc Đức. Ông ấy chọn Auschwitz bởi vì địa điểm ấy dễ tiếp cận bằng đường hỏa xa, và cũng vì nơi ấy rộng rãi đủ để trở thành một trại biệt lập.[34][35][36][37]
Phòng ăn tại biệt thự Wannsee, nơi triệu tập Hội nghị Wannsee. Mười lăm nhân vật ngồi quanh chiếc bàn này để thảo luận về "giải pháp tối hậu cho vấn đề Do Thái" được xem là những người tài trí nhất củaĐức Quốc xã.[38]
Cuối năm 1941, Himmler và Heydrich tỏ ra mất kiên nhẫn với tiến độ của Giải pháp Tối hậu. Đối thủ chính của họ làGöring, vốn thành công trong nỗ lực giữ các công nhân Do Thái khỏi bị trục xuất đến Ba Lan, ông cũng liên kết với các tư lệnh quân đội là những người chống đối việc trục xuất người Do Thái do những tính toán về lợi ích kinh tế, do sự ghê tởm đối với lực lượng SS, và cũng vì lòng nhân đạo (trong một số trường hợp). Mặc dù quyền lực của Göring đã suy giảm từ khi lực lượng không quân của ông thất bại trước sức mạnh phòng không của Anh, ông vẫn được duy trì đặc quyền tiếp cận với Hitler.
Vì vậy, Heydrich phải triệu tập Hội nghị Wannsee vào ngày20 tháng 1 năm1942 tại biệt thựAm Großen Wannsee No. 56-58 ngoại ôBerlin để đúc kết kế hoạch tiêu diệt dân Do Thái.[39] Kế hoạch được biết với tênAktion Reinhard (Chiến dịch Reinhard). Có mặt tại hội nghị có Heydrich, Eichmann,Heinrich Müller (lãnh đạoGestapo), đại diện của Bộ Các Lãnh thổ Miền đông bị Chiếm đóng, Bộ Nội vụ, Văn phòng Kế hoạch Bốn năm, Bộ Tư pháp, Chính quyền ở Ba Lan (có 2 triệu người Do Thái sống ở đây), Văn phòng Ngoại giao, Văn phòng Chủng tộc và Tái định cư, Đảng Quốc xã, và văn phòng phân phối tài sản người Do Thái.[38] Ngoài ra còn cóSS-Sturmbannführer Rudolf Lange, chỉ huy SD ởRiga, người mới vừa dọn sạch khu biệt cư Riga.[39]
Theo Michael Berenbaum, 15 người ngồi quanh chiếc bàn hội nghị được xem là những nhân vật tài trí nhất; hơn một nửa trong số họ đều có học vị tiến sĩ của các đại học Đức. Rượu mạnh được dọn lên trong khi họ bàn luận.[38]
Người ta trình lên hội nghị kế hoạch tàn sát tất cả người Do Thái ở châu Âu, kể cả 330.000 người sinh sống ởAnh và 4.000 ởIreland.[39]
Theo báo cáo, có 2,3 triệu người Do Thái ởBa Lan, 85.000 ởHungary, 1,1 triệu sống tại các quốc gia bị chiếm đóng, và có đến 5 triệu người Do Thái ởLiên Xô (3 triệu trong số này đang sống trong vùng bị Đức chiếm đóng) – tổng cộng có khoảng 6,5 triệu. Tất cả sẽ được vận chuyển bằng tàu hỏa đến các trại hành quyết (Vernichtungslager) ở Ba Lan, tại đó những người không thể làm việc sẽ bị giết bằng hơi ngạt ngay lập tức. Tại các trại khác, như Auschwitz, những người còn có thể làm việc được cho sống một thời gian, nhưng rồi cũng bị mất mạng. Đại diện của Göring, Tiến sĩ Erich Neumann, giành được một sự miễn trừ có giới hạn cho một số tầng lớp công nhân Do Thái.
Tháng 12 năm 1941, Quốc xã cho mở trại Chelmno, trại đầu tiên trong số bảy trại hành quyết được thiết lập với mục đích sử dụng công nghiệp hành quyết để tận diệt tù nhân trong trại. Đây là loại hình khác với các trại tập trung hoặc trại lao động. Hơn ba triệu người Do Thái mất mạng trong các trại hành quyết này. Phương pháp sát hại là dùng khí độc (Zyklon B hoặc carbon monoxide) trong những "phòng hơi ngạt", mặc dù vẫn có nhiều nạn nhân bị giết bằng súng hoặc bằng các phương tiện khác. Thi thể của họ bị đem vào các lò thiêu xác (riêng ở trại Sobibór, dùng các giàn thiêu ngoài trời), tro người chết được rải hoặc chôn.
Các trại hành quyết được điều hành bởi các sĩ quan SS, dưới quyền họ thường là các phụ tá người Ukraina hoặc Baltic. Lính chính quy Đức không được đến gần.
Di tích các phòng hơi ngạt tại Auschwitz II (Birkenau). Ảnh chụp năm 2006
Tại cáctrại hành quyết cóphòng hơi ngạt, tất cả tù nhân được đưa đến bằng xe lửa, vào địa điểm tiếp nhận, tại đây tất cả áo quần và tư trang đều bị tước đoạt. Họ bị dồn, thân thể trần truồng, vào các phòng hơi ngạt. Trước đó họ được bảo cho biết được đưa đi tắm hoặc tẩy trừ rận chấy, trên đường đi có các bảng chỉ dẫn "phòng tắm" hoặc "tắm hơi".
Theo Rudolf Höß, chỉ huy trại Auschwitz,boong ke 1 chứa 800 người, boong ke 2 chứa 1.200. Một khi phòng hơi ngạt đầy người, cửa phòng bị khóa chặt và những viên Zyklon-B, được thả vào phòng qua những lỗ thông hơi trên tường, bắt đầu tỏa khí độc. Những người bị nhốt trong phòng sẽ chết trong vòng 20 phút; chết nhanh hay chậm phụ thuộc vào vị trí người ấy đứng gần lỗ thông hơi hay không, theo ước tính của Rudolf Höß, khoảng một phần ba nạn nhân chết tức khắc. Joann Kremer, một bác sĩ SS, làm chứng: "Có thể nghe tiếng la hét kêu gào của các nạn nhân, rõ ràng là họ đang cố tìm cách cứu mạng mình."[50]
Khi dọn xác nạn nhân, các tù nhân từng là nha sĩ được giao nhiệm vụ dùng kềm thu hồi răng vàng trong miệng các xác chết, và tóc của những xác phụ nữ đều bị cắt.[51]
Một phát kiến mới là chúng tôi cho xây dựng các phòng hơi ngạt có thể chứa 2.000 người cùng một lúc, trong khi trại Treblinka với 10 phòng hơi ngạt chỉ chứa mỗi lần 200 người. Tù nhân được phân loại như sau: tại Auschwitz chúng tôi có hai bác sĩ chuyên làm việc này. Tù nhân xếp hàng từng người một đến trình diện bác sĩ, những người có đủ sức khỏe để làm việc sẽ được nhập trại. Những người còn lại bị đưa đến chỗ hành quyết. Trẻ em còn nhỏ chắc chắn bị giết vì chúng không thể làm việc. Một cải tiến khác khiến chúng tôi qua mặt trại Treblinka, là ở Treblinka nạn nhân hầu như luôn biết là họ sẽ bị hành quyết, trong khi ở Auschwitz chúng tôi cố làm cho họ tin là họ đang được đưa đi tẩy trừ chấy rận. Dĩ nhiên, nhiều khi họ nhận ra ý định của chúng tôi, vì vậy đôi khi chúng tôi cũng gặp khó khăn hoặc có khi bùng nổ bạo loạn. Thường thì các bà mẹ cố giấu con mình sau những lớp áo, nhưng chúng tôi phát hiện ra ngay và đem chúng đi hành quyết. Chúng tôi được lệnh tiến hành các cuộc hành quyết trong bí mật, nhưng mùi hôi thối bốc ra từ những thi thể bị thiêu lan tỏa khắp vùng, nên mọi người dân sinh sống gần đó đều biết rằng các cuộc hành quyết đang diễn ra trong trại Auschwitz. - Rudolf Höß, chỉ huy trại Auschwitz, làm chứng tại Nuremberg[52]
Năm 1942, Quốc xã cho khởi động giai đoạn tàn sát cao nhất trong vụ Holocaust, theo đề án Aktion Reinhard, mở cửa các trại hành quyết Belzec, Sobibór, và Treblinka. Tháng 9 năm 1943, hơn 1,7 triệu người Do Thái bị giết trong ba trại này. Trại tử thần lớn nhất được xây dựng tạiAuschwitz-Birkenau, gồm có một trại lao động (Auschwitz) và một trại hành quyết (Birkenau); trong trại Birkenau có bốn phòng hơi ngạt và một lò thiêu xác. Trại Birkenau là nơi kết thúc mạng sống của khoảng 1,6 triệu người Do Thái (trong đó có 438.000 người Do Thái bị đem đến từHungary chỉ trong vòng vài tháng), 75.000 người Ba Lan và đồng tính nam, cùng khoảng 19.000 người Roma. Vào lúc cao điểm, mỗi ngày có đến 8.000 người bị đưa vào phòng hơi ngạt.
Khi nhập trại, mọi vật dụng có giá trị đều bị tịch thu, phụ nữ bị buộc cắt tóc ngắn. Theo những tài liệu của Quốc xã, tóc của tù nhân được dùng để sản xuất vớ dài. Tù nhân bị chia thành hai nhóm: những người yếu sức bị đưa ngay vào phòng hơi ngạt (đôi khi ngụy trang thành phòng tắm), những người khác bị sử dụng như những lao động khổ sai trong nhà máy hoặc tại các cơ sở công nghiệp được xây dựng bên trong hoặc kế cận trại. Giày, vớ dài và các vật dụng khác của người tù được tái chế thành các sản phẩm phục vụ chiến tranh. Một số tù nhân bị buộc làm công việc gom xác và thu hồi răng vàng từ các thi thể.
Cuối năm1944, khi quân đội Đồng Minh tiến gần nước Đức, Quốc xã quyết định bỏ các trại hành quyết, di chuyển hoặc hủy bỏ chứng cứ về sự tàn bạo ở đây. Quốc xã đưa tù nhân, bệnh tật sau những năm tháng chịu đựng ngược đãi và đói khổ, đi bộ trên những quãng đường dài hàng chục dặm trong tuyết để đến ga xe lửa; rồi được vận chuyển trong những chuyến hành trình dài ngày trong những toa hàng đóng kín mà không có thức ăn; rồi bị buộc phải đi bộ đến một trại khác. Tù nhân lê lết đằng sau hoặc ngã xuống sẽ bị bắn chết. Cuộc hành trình tử thần lớn nhất và được biết đến nhiều nhất diễn ra trong tháng 1 năm 1945, khi ấy quân đội Liên Xô đã tiến vào Ba Lan. Chín ngày trước khi binh sĩ Liên Xô đặt chân đến trại tử thần Auschwitz, lính canh SS đưa 60.000 tù nhân ra khỏi trại đến Wodzislaw cách đó 56 km (35 dặm), đẩy họ vào những toa tàu đóng kín để đưa đến những trại khác. Khoảng 15.000 người chết trên đường đi. Tính tổng cộng, có khoảng 100.000 người Do Thái thiệt mạng trong các cuộc hành trình tử thần.[53]
Trong gió lạnh thấu xương, chúng tôi vẫn bước đều không được nghiêng ngả. Đêm tối như mực. Đâu đó nghe có tiếng súng nổ trong đêm. Họ ra lệnh bắn vào bất cứ ai ngã xuống mà không thể gượng dậy. Những ngón tay chực chờ trên cò súng, họ không thể bỏ qua niềm khoái cảm này. Nếu trong chúng tôi có một người dừng lại dù chỉ trong một giây, lập tức một phát súng khô khốc kết liễu đời một tên tiện dân. Kế cận bên tôi có những người ngã gục trên mặt tuyết bẩn. Và những phát súng[54]
Tháng 7 năm 1944, trại Quốc xã quan trọng đầu tiên, Majdanek, được phát hiện bởi binh sĩ Liên Xô, họ cũng là những người giải phóng trại Auschwitz trong tháng 1 năm 1945. Hầu hết các trại hành quyết đều được phát hiện bởi binh lính Liên Xô, trong số những người tù bị đưa đi trên các cuộc hành trình tử thần, chỉ còn vài ngàn người sống sót. Lực lượng Mỹ và Anh tìm ra các trại tập trung, trong đó có trạiBergen-Belsen vào ngày15 tháng 4 năm1945. Người ta tìm thấy khoảng 60.000 người tù còn ở trong trại,[55] nhưng chỉ trong vòng vài tuần lễ sau khi được giải thoát, có đến 10.000 người chết vì bệnh tật và suy dinh dưỡng.
Chúng tôi nghe tiếng kêu lớn bằng tiếng Anh và tiếng Đức, lặp lại nhiều lần: "Xin chào, xin chào. Các bạn đã được tự do. Chúng tôi là lính Anh đến để giải cứu các bạn. Lời nói này vẫn còn vang vọng trong tai tôi. – Hadassah Rosensaft, người tù tại Bergen-Belsen.[56]
Phóng viên đàiBBCRichard Dimbleby miêu tả quang cảnh các binh sĩ Anh chứng kiến tại Belsen:
Trên khoảnh đất rộng hơn một mẫu Anh nằm la liệt những người chết và những người đang hấp hối. Bạn không thể phân biệt được điều gì… Người sống sót nằm gối đầu trên những xác chết, xung quanh họ là đoàn diễu hành ma quái với những thân người hốc hác, rũ liệt đi thất thểu không phương hướng, không biết làm gì mà cũng không còn chút hi vọng nào cho cuộc sống, họ không còn sức để tránh bạn, cũng không thể nhìn thấy gì chung quanh... Những đứa trẻ chào đời ở đây, những sinh linh bé bỏng này với hình hài quắt queo làm sao mà sống nổi... Một người mẹ mất trí, gào thét khi thấy người lính Anh đưa cho mình bình sữa để cho con bú, vội ném vào tay người này một cái bọc tí xíu... Khi tháo bọc ra, người lính mới biết đứa bé đã chết từ lúc nào.
Cái ngày tôi đặt chân đến Belsen là ngày khủng khiếp nhất đời tôi.[57]
Không thể biết chính xác số người bị giết bởi Đức Quốc xã, nhưng các nhà nghiên cứu đã dùng nhiều phương pháp khác nhau trong đó có tham khảo hồ sơ của Quốc xã, đã đưa ra ước tính có khoảng 5 đến 6 triệu nạn nhân người Do Thái, trong đó có 3 triệu người Ba Lan gốc Do Thái. Khoảng 1,8 đến 1,9 triệu tín đồ Cơ Đốc Ba Lan và những người Ba Lan không phải Do Thái (bao gồm người dân bị thiệt mạng khi xảy ra cuộc xâm lăng của Quốc xã nhưng không tính những thương vong của quân đội). 200.000 - 800.000 người Roma và Sinti (dân Di-gan). 200.000 - 300.000 người khuyết tật.100.000 người cộng sản.10.000 - 25.000 người đồng tính luyến ái.2.500 – 5.000 tín hữu Nhân Chứng Giê-hô-va.
Có những nhóm người khác cũng là nạn nhân của chế độ Quốc xã mặc dù không có nhiều chứng cứ để tin rằng Quốc xã nhắm vào họ như là một phần kế hoạch diệt chủng:3,5 – 6 triệu thường dân thuộc chủng tộc Slav2,5 – 4 triệu tù binh Liên Xô1 – 1,5 triệu người bất đồng chính kiến
Cạnh đó, chế độ Ustaše, một đồng minh của Quốc xã tạiCroatia, tung ra chiến dịch hành quyết tập thể nhắm vào người Serb sinh sống trong lãnh thổ họ đang kiểm soát, cướp sinh mạng của từ 500.000 đến 1,2 triệu người Serb.
Kể từ năm1945, con số người Do Thái là nạn nhân Holocaust được trích dẫn phổ biến nhất là 6 triệu người. Trung tâm tưởng niệm HolocaustYad Vashem ởJerusalem nhận xét:
Không có con số chính xác những nạn nhân Do Thái bị thảm sát. Con số được biết đến nhiều nhất là sáu triệu người được trích dẫn bởiAdolf Eichmann, một sĩ quan cao cấp của lực lượng SS. Hầu hết những nhà nghiên cứu xác nhận con số nạn nhân là từ năm đến sáu triệu người. Những tính toán ban đầu là từ 5, 1 triệu (Giáo sư Raul Hilberg) đến 5, 95 (Jacob Leschinsky). Các cuộc nghiên cứu gần đây hơn của Giáo sư Yisrael Gutman và Tiến sĩ Robert Rozett cho Bách khoa Toàn thư về Holocaust, đưa ra con số ước tính từ 5, 59 – 5, 86 triệu nạn nhân Do Thái, một cuộc nghiên cứu khác dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Wolfgang Benz đưa ra con số ước tính từ 5, 29 – 6 triệu người. Nguồn tư liệu cho các con số thống kê này là bảng so sánh dân số trước và sau chiến tranh. Những tài liệu của Quốc xã với các thống kê thiên vị về số người bị trục xuất và bị giết cũng được sử dụng. Hiện nay Yad Vashem đã thu thập được khoảng hơn bốn triệu tên nạn nhân.[70]
Có khoảng 8 đến 10 triệu người Do Thái sinh sống trong những vùng lãnh thổ bị kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bởi Quốc xã. Con số 6 triệu người thiệt mạng trong vụ thảm sát tức là 60 đến 75% dân số của cộng đồng Do Thái. 90% dân Do Thái ở Ba Lan bị giết. Một tỷ lệ tương đương ởLatvia vàLitva, nhưng phần lớn người Do Thái ở Estionia đã kịp trốn thoát. ỞTiệp Khắc, Hi Lạp, Hà Lan vàNam Tư, hơn 70% người Do Thái bị sát hại. Tỷ lệ này là 50% tạiBỉ,Đan Mạch, Pháp, Ý vàNa Uy. Năm 1933, có 750.000 người bị giết ở Đức và Áo, chỉ còn một phần tư dân Do Thái ở đây sống sót. Từ trước năm 1939, nhiều người Đức gốc Do Thái tìm cách đào thoát khỏi đất nước này, phần lớn đến Tiệp Khắc, Pháp hoặc Hà Lan, nhưng tại những nước này họ lại bị trục xuất để cuối cùng cũng đi đến chỗ chết.
Theo ước tính, con số nạn nhân bị sát hại trong các trại hành quyết là:
Tù binh Liên Xô trần truồng trong trại tập trung Mauthausen.
Theo Michael Berenbaum, 57% trong tổng số tù binh Liên Xô bị chết đói, bị ngược đãi và xử tử trong khoảng thời gian từ tháng 6 năm 1941 đến tháng 5 năm 1945, hầu hết đều không sống qua năm đầu tiên trong trại giam. Tỉ lệ tử vong giảm dần khi những tù binh này trở nên cần thiết cho người Đức là lực lượng lao công khổ sai trong nỗ lực kéo dài cuộc chiến; năm 1943, con số tù binh lao động khổ sai lên đến nửa triệu người.[59]
Theo ước tính của Daniel Goldhagen, có khoảng 2,8 triệu tù binh Liên Xô thiệt mạng trong tám tháng từ năm 1941-1942, đến giữa năm 1944, tổng số nạn nhân là 3,5 triệu người.[72] Bảo tàng Tưởng niệm Holocaust Hoa Kỳ đưa ra con số ước tính là từ 3,3 đến 5,7 triệu tù binh Liên Xô thiệt mạng trong khi bị người Đức giam giữ - so với 8.300 tù binhAnh và 231.000 tù binhMỹ.[73] Cũng từ nguồn dẫn này, trong tháng 10 năm 1941, có gần 5.000 tù binh Liên Xô chết mỗi ngày.
Theo Donald Niewyk và Frances Nicosia, trong tổng số gần một triệungười Di-gan (Roma và Sinti) sinh sống trong các vùng lãnh thổ châu Âu do Quốc xã kiểm soát, có đến 130.000 người bị giết, còn Michael Berenbaum viết rằng con số này khoảng từ 90.000 đến 220.000 người.[74] Sybil Milton, một nhà sử học từng làm việc ở Bảo tàng Holocaust Hoa Kỳ ước tính có ít nhất 220.000 đến 500.000 nạn nhân.[75][76] Ian Hancock thuộcĐại học Texas tại Austin cho rằng con số nạn nhân cao hơn nhiều, từ 500.000 đến 1.500.000.[77]
Nước Đức năm 1941, bao gồm lãnh thổ của Ba Lan bị chiếm đóng.
Tháng 12 năm1946, cùng 22 người khác, Brandt bị đem ra xét xử tạiNürnberg, và bị treo cổ ngày2 tháng 6 năm1948 tại nhà tù Landsberg.Aktion T4 là chương trình thành lập năm1939 với mục tiêu bảo vệ "tính thuần khiết di truyền" của dân tộc Đức bằng cách sát hại hoặc làm mất khả năng sinh sản của các công dân Đức và Áo, là những người tật nguyền hoặc mắc bệnh tâm thần.[78]
Từ năm 1939 đến 1941, từ 80.000 đến 100.000 bệnh nhân trong các viện tâm thần bị giết; 5.000 trẻ em và 1.000 người Do Thái đang điều trị trong các viện tâm thần cũng bị giết,[79] và 300.000 bệnh nhân khác bị buộc phải triệt sản.[80]
Chương trình này được gọi làTiergartenstraße 4, theo địa chỉ một tòa nhà ở hạtTiergarten tại Berlin, trụ sở củaGemeinnützige Stiftung für Heil und Anstaltspflege (Tổ chức Phúc lợi và Điều trị),[81] đặt dưới quyền lãnh đạo củaPhilipp Bouhler, người đứng đầu văn phòng riêng của thủ tướng (Kanzlei des Führer der NSDAP), vàKarl Brandt, bác sĩ riêng của Hitler.
Tháng 12 năm1946, cùng 22 người khác, Brandt bị đem ra xét xử tạiNürnberg, và bị treo cổ ngày2 tháng 6 năm1948 tại nhà tù Landsberg.
Có khoảng từ 5.000 đến 15.000 công dân Đức là người đồng tính bị thiệt mạng trong các trại tập trung.[82] Theo James D. Steakley, lúc ấy điều người Đức quan tâm là ý định và khuynh hướng phạm tội chứ không phải là hành động phạm tội.[83] Năm 1936,Heinrich Himmler, thủ lĩnh SS, thành lập "Văn phòng Trung ương Tấn công Đồng tính luyến ái và Phá thai". Đồng tính luyến ái bị xem là đi ngược lại "tình cảm lành mạnh truyền thống",[82] người đồng tính nam bị xem là "những kẻ làm ô uế dòng máu Đức".Gestapo bố ráp các quán rượu đồng tính, săn đuổi người đồng tính, cũng như khuyến khích người dân dò xét và tố giác những người bị nghi ngờ là đồng tính luyến ái. Họ bị sỉ nhục, tra tấn, bị các bác sĩ SS sử dụng trong các thí nghiệm vềhormone, và bị giết.[82][83]
TrongMein Kampf, Hitler viết những người tham gia "hội kín"Hội Tam Điểm đã "phục tùng" người Do Thái: "Những người Tam Điểm gây ra sự tê liệt trong thiên hướng bảo tồn nòi giống, và báo chí Do Thái giúp lan truyền trong quảng đại quần chúng".[84] Những người Tam Điểm bị đưa vào các trại tập trung. Người ta ước tính có khoảng 80.000 đến 200.000 người bị giết.[85][86]
Do từ chối trung thành với Quốc xã và không chịu gia nhập quân đội, có khoảng 12.000Nhân chứng Giê-hô-va bị đưa vào trại tập trung. Có khoảng 2.500 đến 5.000 người bị giết.[67]
Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, hàng triệu người có gia đình tan nát vì chiến tranh ra sức tìm kiếm tin tức về số phận những người thân hoặc bạn bè bị mất tích. Những nỗ lực này ngày càng suy giảm khi thời gian trôi qua. Tuy nhiên, gần đây con cháu những người sống sót sau cuộc thảm sát bắt đầu quan tâm đến số phận người thân của họ là những người vẫn bị xem là mất tích. Yad Vashem cung cấp cơ sở dữ liệu về ba triệu tên tuổi, một nửa trong số đó là những người Do Thái, nạn nhân trực tiếp của vụ thảm sát.
Do tính tổ chức cao cùng với sức mạnh quân sự áp đảo của Đức Quốc xã và bè phái ủng hộ, ít có người Do Thái và những nạn nhân Holocaust có thể chống lại các vụ tàn sát. Tuy vậy vẫn xảy ra nhiều trường hợp các nạn nhân cố chống trả dưới các hình thức khác nhau, cũng có hơn một trăm vụ nổi dậy có vũ trang của người Do Thái.
Trường hợp điển hình là cuộc bạo động có tổ chức của người Do Thái trong vụ nổi dậy tại khu biệt cư Warszawa, diễn ra từ tháng 4 kéo dài đến tháng 5 năm 1943, khi lần trục xuất cuối cùng khỏi khu biệt cư đến trại tử thần sắp tiến hành, chiến binh thuộc hai tổ chức kháng chiến của người Do TháiZOB vàZZW nổi dậy chống lại Quốc xã. Hầu hết đều bị giết chết, chỉ còn một ít sống sót sau chiến tranh sang định cư tạiIsrael. Cũng có những cuộc nổi dậy tại các khu biệt cư khác, và tất cả đều thất bại trước sức mạnh quân sự của người Đức.
Cũng có những sự chống trả diễn ra bởi tù nhân trong ba trại hành quyết. Tháng 8 năm 1943, một cuộc nổi dậy bùng phát trong trại hành quyết Treblinka. Nhiều tòa nhà bị thiêu rụi, 70 tù nhân trốn thoát nhưng có 1.500 người khác bị giết chết. Các vụ hành quyết bằng hơi độc bị gián đoạn trong một tháng. Tháng 10 năm 1943, một cuộc nổi dậy khác xảy ra tại trại hành quyết Sobibór, lần này thành công hơn với 11 lính SS và một số lính canh Ukraina thiệt mạng, khoảng 300 trong số 600 người tù trốn thoát, 50 người trong số họ sống sót sau chiến tranh. Cuộc đào thoát đã buộc Quốc xã phải đóng cửa trại. Ngày7 tháng 10 năm1944, nhữngSonderkommando người Do Thái (những tù nhân bị giam riêng cách ly với trại chính và bị buộc làm việc tại các phòng hơi ngạt và các lò thiêu xác) tại Auschwitz tổ chức nổi dậy. Các nữ tù nhân đánh cắp thuốc nổ từ một xưởng vũ khí; nhờ đó, họ phá hủy một phần lò thiêu xác số 4 bằng chất nổ, và tổ chức một cuộc đào thoát tập thể nhưng tất cả 250 người đều bị giết.
Yehuda Bauer và các sử gia khác lập luận rằng sự chống trả của các tù nhân không chỉ là những phản kháng bạo động, mà còn là bất cứ hành động nào nhằm giành lạinhân phẩm và tính nhân bản cho người Do Thái, cưỡng chống lại sự lăng mạ và các điều kiện sống vô nhân đạo.[87]
Trong mỗi khu biệt cư, trên mỗi chuyến xe lửa chở người bị trục xuất, trong mỗi trại lao động, tinh thần phản kháng luôn mạnh mẽ, thể hiện dưới nhiều hình thức. Có thể thấy người ta chiến đấu với số vũ khí ít ỏi, sự kháng cự của mỗi cá nhân, sự can đảm thể hiện trong việc tìm kiếm thức ăn và nước uống dù phải trả giá bằng mạng sống, lòng kiêu hãnh khi không cho phép người Đức hả hê vì chứng kiến sự kinh hãi khiếp đảm của nạn nhân. Ngay cả thái độ thụ động cũng là một hình thức phản kháng. Chết vớinhân phẩm cũng là một sự phản kháng. Không suy sụp tinh thần, chống lại sự đối xử tàn bạo, không chịu tự hạ thấp mình để sống như thú vật, dù phải chịu tra tấn, để có thể sống lâu hơn kẻ tra trấn mình… Chỉ đơn giản còn sống sót đã là một chiến thắng cho tinh thần bất khuất của con người."
Tại Ba Lan và những vùng bị chiếm đóng của Liên Xô, hàng ngàn người Do Thái ẩn trốn trong rừng và các khu đầm lầy, rồi tìm cách gia nhập lực lượng kháng chiến mặc dù không phải lúc nào họ cũng được chào đón tại đây. ỞLitva vàBelarus, khu vực có đông dân cư Do Thái, cũng là nơi thích hợp cho các vụ đột kích, kháng chiến quân Do Thái đã giải thoát hàng ngàn người Do Thái khỏi bị sát hại. Song, dân Do Thái ở các thành phố nhưBudapest đã không làm được điều này. Tuy nhiên, tạiAmsterdam, và những vùng khác ởHà Lan, nhiều người Do Thái hoạt động tích cực trong lực lượng kháng chiến Hà Lan.[89] Gia nhập lực lượng kháng chiến là chọn lựa chỉ dành cho những người trẻ tuổi và những người có thể rời bỏ gia đình, trong khi đó có nhiều gia đình Do Thái chấp nhận cùng chết với nhau chứ không chịu bị phân rẽ.
Nhiều người nghĩ rằng người Do Thái đi đến chỗ chết như chiên bị dẫn đến lò sát sinh, điều đó không đúng – hoàn toàn không đúng. Tôi đã hoạt động kề cận nhiều người Do Thái trong cuộc kháng chiến, tôi có thể bảo với các bạn rằng họ đã chịu đựng nhiều nguy hiểm hơn cả tôi từng chịu."
— Pieter Meerburg.The Heart Has Reasons: Holocaust Rescuers and Their Stories of Courage.[90]
Đã xảy ra ba tình huống mà toàn thể một quốc gia đứng lên chống lại lệnh trục xuất dân Do Thái. Trong tháng 10 năm 1943, VuaChristian X của Đan Mạch và thần dân cứu mạng gần 7.500 người Do Thái sinh sống ởĐan Mạch bằng cách lén lút đưa họ đếnThụy Điển bằng những thuyền đánh cá. Hơn nữa, Chính quyền Đan Mạch tiếp tục hành động để bảo vệ những người Do Thái tại Đan Mạch bị Quốc xã giam giữ. Khi những người tù Do Thái trở về sau chiến tranh, họ thấy nhà cửa và tài sản còn nguyên vẹn như lúc họ bị bắt.
TạiBulgaria, chính quyền đồng minh với Quốc xã dưới quyền lãnh đạo củaBogdan Filov, sau khi nhượng bộ trước áp lực của phó chủ tịch quốc hộiDimitar Peshev vàGiáo hội Chính Thống Bulgaria, đã cứu mạng 50.000 công dân gốc Do Thái vì không chịu trục xuất họ. Chính quyềnPhần Lan nhiều lần từ chối các yêu cầu của Đức trục xuất người Do Thái tại Phần Lan đến Đức. Tương tự, phần lớn những yêu cầu trục xuất người Do Thái khỏi Na Uy cũng bị khước từ. TạiRoma, khoảng 4.000 người Do Thái và tù binh tránh khỏi bị trục xuất. Nhiều người được giấu trong những căn nhà an toàn và được đưa ra khỏi nước Ý bởi một nhóm kháng chiến của một linh mục ngườiIreland,Monsignor Hugh O’Flaherty thuộcTòa Thánh. Một lần, một đại sứ củaVatican tạiAi Cập đã sử dụng những mối quan hệ chính trị để bảo đảm chỗ trú ẩn cho những người Do Thái bị tước đoạt tài sản.
Aristides de Sousa Mendes, một nhà ngoại giaoBồ Đào Nha, đã cấp hộ chiếu cho khoảng 30.000 người Do Thái và các nhóm thiểu số khác tại Âu châu. Ông cứu nhiều mạng người nhưng phải hi sinh sự nghiệp chính trị của mình. Năm 1941, nhà độc tài Salazar buộc ông từ chức. Năm1954, Sousa Mendes chết trong nghèo đói.
Tháng 4 năm 1943, một vài kháng chiến quân Bỉ chặn một đoàn tàu đang đến Auschwitz và giải thoát 231 người (115 người trong số này thoát khỏi cuộc thảm sát).
Một số thị trấn và nhà thờ đã giúp che giấu người Do Thái và bảo vệ những người khác khỏi cuộc thảm sát, như trường hợp nhà thờ củaMục sưAndre Trocmé tại thị trấnLe Chambon-sur-Lignon,Pháp, đã che giấu 3.000 đến 5.000 người Do Thái. Trong thời kỳ La Mã bị chiếm đóng,Giáo hoàngPius XII đã giúp che giấu nhiều người Ý gốc Do Thái trong các tu viện; có đến 1.000 người Do Thái ẩn náu tại Lâu đài Mùa hèCastel Gandolfo của Giáo hoàng. Nhiều cá nhân và gia đình trên khắp châu Âu cũng tìm cách cứu giúp các nạn nhân, như trong trường hợp củaAnne Frank, thường họ phải bị liên lụy và chịu nguy hiểm vì hành động này.
Có những nhóm như tổ chứcŻegota của Ba Lan đã tiến hành những hoạt động táo bạo và ngoạn mục nhằm giải cứu người Do Thái và các nạn nhân khác khỏi tay Quốc xã.Witold Pilecki, thành viên củaArmia Krajowa, từ năm 1940 đã tổ chức một phong trào kháng chiến bên trong trại tập trung Auschwitz.
Shoah (1985) một phim tài liệu dài chín tiếng được đạo diễn bởiClaude Lanzmann. Bộ phim kể lại những trải nghiệm của những người trong cuộc từng trải qua những sự kiện diệt chủng này.
^Harran, Marilyn.The Holocaust Chronicles, A History in Words and Pictures, Louis Weber, 2000, p. 384.
^Müller-Hill, Benno.Murderous Science: Elimination by Scientific Selection of Jews, Gypsies, and Others in Germany, 1933–1945. Cold Spring Harbor Laboratory Press, 1997, p.22.
^abBerenbaum, Michael.The World Must Know, United States Holocaust Memorial Museum, p. 194–195.
^Friedländer, Saul.Nazi Germany and the Jews Volume 1: The Years of Persecution, 1933–1939. First published 1997 by HarperCollins; this edition, HarperPerennial 1998, p. 12.
^Friedländer, Saul.Nazi Germany and the Jews Volume 1: The Years of Persecution, 1933–1939. First published 1997 by HarperCollins; this edition, HarperPerennial 1998,
^abFriedländer, Saul.Nazi Germany and the Jews Volume 1: The Years of Persecution, 1933–1939. First published 1997 by HarperCollins; this edition, HarperPerennial 1998, p. 33.
^Friedländer, Saul.Nazi Germany and the Jews Volume 1: The Years of Persecution, 1933–1939. First published 1997 by HarperCollins; this edition, HarperPerennial 1998, p. 29.
^abPadfield, Peter.Himmler: Reichsfuhrer SS. Macmillian 1990, p. 270. Padfield gives as his source for both the Heydrich quote and Eichmann's comment on it J von Lang and C Sybill (eds)Eichmann Interrogated. Bodley Head, London 1982, pp. 92–93.
^Harran, Marilyn (2000).The Holocaust Chronicles, A History in Words and Pictures. Louis Weber. tr. 461.ISBN0-7853-2963-3.
^Per[1]Lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2013 tạiWayback Machine, Auschwitz II total numbers are "between 1.3M–1.5M", so we use the middle value 1.4M as estimate here.
^Piper, Franciszek. "Gas chambers and Crematoria," in Berenbaum, Michael & Gutman, Yisrael (eds).Anatomy of the Auschwitz Death Camp, Đại học Indiana Press and the United States Holocaust Memorial Museum, 1994, p. 163.
^Piper, Franciszek. "Gas chambers and Crematoria," in Berenbaum, Michael & Gutman, Yisrael (eds).Anatomy of the Auschwitz Death Camp, Đại học Indiana Press and the United States Holocaust Memorial Museum, 1994, p. 163. Also inGoldensohn, Leon.Nuremberg Interviews, Vintage paperback 2005, p. 298: Goldensohn, an American psychiatrist, interviewed Rudolf Höß at Nuremberg on ngày 8 tháng 4 năm 1946. Höß told him: "We cut the hair from women after they had been exterminated in the gas chambers. The hair was then sent to factories, where it was woven into special fittings for gaskets." Höß said that only women's hair was cut and only after they were dead. He said he had first received the order to do this in 1943.
^Modern History Sourcebook: Rudolf Höß, Commandant of Auschwitz: Testimony at Nuremburg, 1946 Accessed ngày 6 tháng 5 năm 2007
^1.8–1.9 million non-Jewish Polish citizens are estimated to have died as a result of the Nazi occupation and the war. Estimates are from Polish scholar, Franciszek Piper, the chief historian at Auschwitz.Poles: Victims of the Nazi EraLưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2012 tạiWayback Machine at the United States Holocaust Memorial Museum.
^"Sinti and Roma", United States Holocaust Memorial Museum (USHMM). The USHMM places the scholarly estimates at 220.000–500.000. Michael Berenbaum inThe World Must Know, also published by the USHMM, writes that "serious scholars estimate that between 90.000 and 220.000 were killed under German rule." (Berenbaum, Michael.The World Must Know," United States Holocaust Memorial Museum, 2006, p. 126.
^Hodapp, Christopher.Freemasons for Dummies, For Dummies, 2005.
^Wingeate Pike, David.Spaniards in the Holocaust: Mauthausen, the Horror on the Danube, 2000; Razola, Marcel & Constante, Mariano.Triangle bleu; Gilbert, Martin.The Holocaust: A History of the Jews of Europe During the Second World War, Owl Books, 1987;"Spanish prisoners at Mauthausen"Lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2007 tạiWayback Machine,Scrapbookpages.com.
^abShulman, William L.A State of Terror: Germany 1933-1939. Bayside, New York: Holocaust Resource Center and Archives.
^Wolfgang Benz in Dimension des Völkermords: Die Zahl der jüdischen Opfer des Nationalsozialismus (Munich: Oldenbourg, 1991)
^Israel Gutman,Encyclopedia of the Holocaust, Macmillan Reference Books; Reference edition (ngày 1 tháng 10 năm 1995)
^RSHA Amt VII,Written Records, overseen by ProfessorFranz Six, was responsible for "ideological" tasks, by which was meant the creation of anti-Semitic and anti-masonic propaganda.
^* Bauer, Yehuda.Forms of Jewish Resistance During the Holocaust. InThe Nazi Holocaust: Historical Articles on the Destruction of European Jews. Vol. 7: Jewish Resistance to the Holocaust, edited by Michael R. Marrus, 34–48. Westport, CT: Meckler, 1989.
Bauer, Yehuda,They chose life: Jewish resistance in the Holocaust, New York, The American Jewish Committee, 1973.
——— (1989). "Rescue by negotiations? Jewish attempts to negotiate with the Nazis". TrongMichael R. Marrus (biên tập).The Nazi Holocaust, Part 9: The End of the Holocaust.Walter de Gruyter. tr. 3–21.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Bloxham, Donald (2000).Extermination through work: Jewish Slave Labour under the Third Reich. Quyển 1. Holocaust Educational Trust Research Papers.
Brechtken, Magnus (1998).Madagaskar für die Juden: antisemitische Idee und politische Praxis 1885–1945 (ấn bản thứ 2). Munich: Oldenbourg Wissenschaftsverlag.
——— (2004).The Origins of the Final Solution: The Evolution of Nazi Jewish Policy, September 1939 – March 1942. Jerusalem:Yad Vashem.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Buchheim, Hans (1968). "Command and Compliance". Trong Helmut Krausnick; Hans Buchheim;Martin Broszat; Hans-Adolf Jacobsen (biên tập).The Anatomy of the SS State. New York: Walker and Company. tr. 303–396.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
Buchholz, Werner (1999).Pomern. Deutsche Geschicte im Osten Europas. Berlin: Siedler.
——— (2002).Lying About Hitler: The Holocaust, History and the David Irving Trial. London:Verso.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
——— (2007).The Years of Extermination: Nazi Germany and the Jews 1939–1945. London: Weidenfeld & Nicolson.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Gaon, Solomon (1995). ""The Non-European Holocaust: the fate of Tunisian Jewry"".Del fuego: Sephardim and the Holocaust. New York: Sepher-Hermon Press.ISBN0-87203-143-8.
Garbe, Detlef (2001). "Social Disinterest, Governmental Disinformation, Renewed Persecution, and Now Manipulation of History?". Trong Hans Hesse (biên tập).Persecution and Resistance of Jehovah's Witnesses During the Nazi-Regime 1933–1945. Bremen: Edition Temmen. tr. 251–265.
Hauner, Milan (1991)."Russia's geopolitical and ideological dilemmas in Central Asia". Trong Canfield, Robert L. (biên tập).Turko–Persia in Historical Perspective. School of American Research Press.ISBN978-1938645419.As Turkistanis they joined the so-called "Eastern Legions", which were part of theWehrmacht and later theWaffen-SS, to fight the Red Army (Hauner 1981:339-57).. The estimates of their numbers vary between 250,000 and 400,000, which include theKalmyks, theTatars and members of theCaucasian ethnic groups (Alexiev 1982:33).Introduction by Robert Canfield.
Hedgepeth, Sonja M.; Saidel, Rochelle G. (2010).Sexual Violence against Jewish Women During the Holocaust. Lebanon, NH:University Press of New England.
Hillgruber, Andreas (1989). "War in the East and the Extermination of the Jews". Trong Marrus, Michael R. (biên tập).The Nazi Holocaust. Part 3: The "Final Solution": The Implementation of Mass Murder. Quyển 1. Walter de Gruyter.ISBN978-3598215544. InYad Yashem.
Krakowski, Shmuel (1989). "The Death Marches in the Period of the Evacuation of the Camps". TrongMichael R. Marrus (biên tập).The Nazi Holocaust, Part 9: The End of the Holocaust.Walter de Gruyter. tr. 476–90.
Krausnick, Helmut (1968). "The Persecution of the Jews". Trong Helmut Krausnick; Hans Buchheim; Martin Broszat; Hans-Adolf Jacobsen (biên tập).The Anatomy of the SS State. New York, NY: Walker and Company. tr. 1–125.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
Kudryashov, Sergei (2004). "Ordinary Collaborators: The Case of the Travniki Guards". Trong Mark Erickson; Ljubica Erickson (biên tập).Russia: War, Peace and Diplomacy Essays in Honour of John Erickson. London:Weidenfeld & Nicolson. tr. 226–239.ISBN0297849131.
——— (2004). "Forced Labour of German Jews in Nazi Germany". Trong Cesarani, David (biên tập).Holocaust: Concepts in Historical Studies. London: Routledge.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
Lador-Lederer, Joseph (1980). "World War II: Jews as Prisoners of War".Israel Yearbook on Human Rights. Quyển 10. Tel Aviv:Tel Aviv University. tr. 70–89.
Lang, Berel (2003).Act and Idea in the Nazi Genocide. Syracuse University Press.
Lemkin, Raphael (2005).Axis Rule in Occupied Europe: Laws of Occupation, Analysis of Government, Proposals for Redress. New York, NY: Lawbook Exchange.
Lower, Wendy (2006). "The'reibungslose' Holocaust? The German Military and Civilian Implementation of the 'Final Solution' in Ukraine, 1941–1944". Trong Gerald D. Feldman; Wolfgang Seibel (biên tập).Networks of Nazi Persecution: Bureaucracy, Business, and the Organization of the Holocaust. New York & Oxford: Berghahn Books. tr. 236–256.
Majer, Diemut (2003).Non-Germans under the Third Reich The Nazi Judicial and Administrative System in Germany and Occupied Eastern Europe, with Special Regard to Occupied Poland, 1939–1945. Texas Tech University Press.
Matthäus, Jürgen (2004). "Operation Barbarossa and the Onset of the Holocaust, June–December 1941".InChristopher Browning. The Origins of the Final Solution: The Evolution of Nazi Jewish Policy, September 1939 – March 1942. Jerusalem:Yad Vashem. tr. 244–308.
Mayer, Arno (2012).Why Did the Heavens Not Darken?: The "Final Solution" in History. London and New York: Verso Publishing.
Montague, Patrick (2012).Chelmno and the Holocaust: A History of Hitler's First Death Camp. London:I.B.Tauris.
Möller, Horst (1999).Der rote Holocaust und die Deutschen. Die Debatte um das 'Schwarzbuch des Kommunismus'. Munich:Piper Verlag.
Mommsen, Hans (1993). "The New Historical Consciousness". Trong Ernst Piper (biên tập).Forever in the Shadow of Hitler?. Humanities Press, Atlantic Highlands. tr. 114–124.
Müller-Hill, Benno (1998).Murderous Science: Elimination by Scientific Selection of Jews, Gypsies, and Others in Germany, 1933–1945. Plainview, NY:Cold Spring Harbor Laboratory Press.
Neugebauer, Wolfgang (1998)."Racial Hygiene in Vienna 1938".Wiener Klinische Wochenschrift. số Special Edition.Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2007.
Niewyk, Donald L. (2012). "The Holocaust: Jews, Gypsies, and the Handicapped". Trong Parsons, Samuel; Totten, William S. (biên tập).Centuries of Genocide: Essays and Eyewitness Accounts. New York, NY:Routledge. tr. 191–248.
Poprzeczny, Joseph (2004).Odilo Globocnik: Hitler's Man in the East. Jefferson, NC:McFarland & Company.
Porat, Dina (2002). "The Holocaust in Lithuania: Some Unique Aspects". TrongDavid Cesarani (biên tập).The Final Solution: Origins and Implementation. London:Routledge. tr. 159–174.
Swiebocki, Henryk (1998) [1994]. "Prisoner Escapes". Trong Yisrael Gutman; Michael Berenbaum (biên tập).Anatomy of the Auschwitz Death Camp. Bloomington, IN:Indiana University Press.