Hoàng Hà (tiếng Hán: 黃河;pinyin:Huáng Hé;Wade-Giles:Hwang-ho, " hoàng nghĩa là màu vàng của mặt trời, hà nghĩa là mặt bằng, ghép lại hoàn chỉnhHoàngHà có nghĩa là mặt nước sông màu vàng "), là consông dài thứ hai châu Á xếp sau sôngTrường Giang (Dương Tử), vớichiều dài 5.464 km sông Hoàng Hà xếp thứ sáu thế giới vềchiều dài.[1]
Một trong những tên gọi cổ hơn trong tiếng Mông Cổ là "HắcHà",[3] do dòng sông trong trước khi chảy vàocao nguyên Hoàng Thổ, nhưng tên hiện tại của con sông ở vùngNội Mông làȞatan Gol (Хатан гол, "Queen River").[4] Ở Mông Cổ, nó có tên làŠar Mörön (Шар мөрөн, "Hoàng Hà").
ỞThanh Hải, tên sông trong tiếng Tây Tạng là "Sông Công" (tiếng Tây Tạng:རྨ་ཆུ།,Ma Chu; tiếng Trung:giản thể玛曲,phồn thể瑪曲,pMǎ Qū).
Tên tiếng AnhHwang Ho là tên ghi trên bản đồ đượcLatin hóa củaHoàng Hà
Từ đầu nguồn của nó, con sông chảy theo hướng nam, sau đó tạo ra một chỗ uốn cong về hướng đông nam và sau đó lại chảy theo hướng nam một lần nữa cho đến khi tới thành phốLan Châu, thủ phủ của tỉnhCam Túc, là nơi mà điểm uốn cong lớn về phía bắc, bắt đầu. Con sông chảy về phía bắc qua Khu tự trị dân tộc HồiNinh Hạ tới khu tự trịNội Mông, đoạn cong này gọi là Hà Sáo. Sau đó con sông này lại đổi hướng, chảy gần như thẳng về phía nam, tạo ra ranh giới của hai tỉnhThiểm Tây vàSơn Tây. Khoảng 130 km về phía đông bắc của thành phốTây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây, Hoàng Hà lại đổi hướng để chảy về phía đông. Nó chảy tới những vùng đất trũng ven biển ở miền đông Trung Quốc gần thành phốKhai Phong. Sau đó chảy quaTế Nam, thủ phủ của tỉnhSơn Đông và đổ ra biểnBột Hải (vịnh Bột Hải).
Theo một báo cáo năm 2000, 7 nhà máy thủy điện lớn nhất (Long Dương Hiệp, Lý Gia Hiệp, Lưu Gia Hiệp, Diêm Oa Hiệp, Bát Bàn Hiệp, Đại Hiệp và Thanh Đồng Hiệp) có tổng công suất lắp máy là 5.618 MW.[5]
Nó tưới tiêu cho một khu vực rộng 944.970 km vuông (364.417 dặm vuông), nhưng do tính chất khô cằn chủ đạo của vùng này (không giống như phần phía đông thuộcHà Nam vàSơn Đông) nên lưu lượng nước của nó tương đối nhỏ. Tính theo lưu lượng nó chỉ bằng 1/15 của sôngTrường Giang và 1/5 của sôngChâu Giang, mặc dù khu vực tưới tiêu của con sông cuối (Châu Giang) chưa bằng một nửa của Hoàng Hà.
Trong lịch sử hàng ngàn năm của Trung Quốc, Hoàng Hà vừa đem lại lợi ích vừa đem lại tai họa cho người dân, vì thế nó còn được coi là "Niềm kiêu hãnh của Trung Quốc" (pinyin:Zhōngguó de Jiāoào) và "Nỗi buồn của Trung Quốc" (pinyin:Zhōngguó de Tòng). Các ghi chép chỉ ra rằng, từ năm602 đến ngày nay, con sông này đã ít nhất 26 lần đổi dòng (5 lần đổi dòng ở quy mô lớn) và các conđê bao bọc đã vỡ hoặc tràn không dưới 1.500 lần. Lần thay đổi dòng năm1194 đã phá vỡ hệ thống tưới tiêu củasông Hoài trong gần 700 năm sau. Phù sa Hoàng Hà đã ngăn chặn dòng chảy của sông Hoài và làm hàng ngàn người mất nhà ở. Mỗi lần đổi dòng nó khi thì đổ raHoàng Hải, khi thì ravịnh Bột Hải.[6] Hoàng Hà có dòng chảy như ngày nay từ năm1897 sau lần đổi dòng cuối cùng năm1855.[7]
Trong suốt thế kỷ 20, Hoàng Hà mang ra biển khoảng 0,9x10⁹ tấn trầm tích/năm.[6] Màu nước vàng của con sông là do phù sa mà nó mang theo, do lượng phù sa và trầm tích trong dòng nước có thể lên đến 34 kg/1 mét khối nước - cao gấp 34 lần so với sông Nile ở châu Phi. Hàng thế kỷ của việc bồi đắp và sự bao bọc của các con đê đã làm con sông này chảy ở độ cao lớn hơn so với đất nông nghiệp hai bên bờ, làm cho việc ngập lụt trở nên nguy hiểm hơn. Ngập lụt của Hoàng Hà đã gây ra sự chết chóc khủng khiếp trong lịch sử như năm1887 Hoàng Hà đã giết chết khoảng 900.000-2.000.000 người và năm1931 nó đã giết chết khoảng 1.000.000-3.700.000 người. Trận lũ năm 1931 được ghi nhận là thảm họa thiên nhiên tồi tệ nhất lịch sử thế giới, ước tính cướp đi sinh mạng của khoảng 3,7 triệu người. Năm1938, trongChiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai, quân đội củaTưởng Giới Thạch đã phá đê bao bọc Hoàng Hà để ngăn cản bước tiến của quân Nhật và làm ngập lụt một vùng rộng lớn làm chết khoảng 500.000-900.000 người.
Đôi khi người ta còn gọi nó là 濁流 (Troọc Lưu), nghĩa làdòng nước đục. Thành ngữ Trung Quốc "Khi nước Hoàng Hà trong" ám chỉ điều không bao giờ xảy ra.
Sinclair, Kevin. 1987. Hoàng Hà: 5.000 năm du lịch qua Trung Quốc. (Dựa trên các tư liệu truyền hình). Child & Associates Publishing, Chatswood, Sydney, Australia.ISBN 0-86777-347-2
^abJ.P. Liu, J.D. Milliman và S. Gao (2002). "The Shangdong mude wedge and post-glacial sediment accumulation in the Yellow sea".Geo-Mar Letter. Quyển 21.Springer-Verlag. tr. 121–218.doi:10.1007/s00367-001-0083-5.
^J.D Milliman và nnk (1989). "Sediment and sedimentary processes in the Yellow and east China seas".Sedimentary faices in the active plate margin. Terra Scientific Publishing Company, Tokyo. tr. 233–249.
Sinclair, Kevin. 1987.The Yellow River: A 5000 Year Journey Through China. (Based on the television documentary). Child & Associates Publishing, Chatswood, Sydney, Australia.ISBN 0-86777-347-2