Thiết giáp hạmHelgoland, khoảng năm 1911–1917 | |
| Khái quát lớp tàu | |
|---|---|
| Tên gọi | LớpHelgoland |
| Xưởng đóng tàu | |
| Bên khai thác | |
| Lớp trước | lớpNassau |
| Lớp sau | lớpKaiser |
| Thời gian đóng tàu | 1908–1912 |
| Thời gian hoạt động | 1911–1920 |
| Dự tính | 4 |
| Hoàn thành | 4 |
| Nghỉ hưu | 4 |
| Đặc điểm khái quát | |
| Kiểu tàu | Thiết giáp hạmdreadnought |
| Trọng tải choán nước |
|
| Chiều dài | 167,2 m (548 ft 7 in) |
| Sườn ngang | 28,5 m (93 ft 6 in) |
| Mớn nước | 8,94 m (29 ft 4 in) |
| Động cơ đẩy | |
| Tốc độ | 20,5hải lý trên giờ (38,0 km/h; 23,6 mph) |
| Tầm xa | 5.500 nmi (10.190 km; 6.330 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) |
| Tầm hoạt động |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa |
|
| Vũ khí |
|
| Bọc giáp |
|
| Ghi chú | Nguồn tham khảo:[1] |
Lớp thiết giáp hạmHelgoland là lớpthiết giáp hạmdreadnought thứ hai củaHải quân Đế quốc Đức. Được chế tạo từ năm1908 đến năm1912, lớp bao gồm bốn chiếc:Helgoland,Ostfriesland,Oldenburg vàThüringen. Thiết kế của chúng là một sự cải tiến đáng kể so với những chiếc thuộclớpNassau dẫn trước; chúng có dàn pháo chính với cỡ pháo lớn hơn, 30,5 cm (12,0 in) thay vì 28 cm (11 in) trang bị trên những chiếc trước đây, và một hệ thống động lực được cải tiến.[2] LớpHelgoland có thể dễ dàng phân biệt với lớpNassau dẫn trước nhờ ba ống khói được sắp xếp gần nhau thay vì hai ống khói lớn như của lớp trước. Các con tàu vẫn giữ lại cách sắp xếp các tháp pháo chính theo hình lục giác khá bất thường của lớpNassau.[2]
Những chiếc trong lớp đã phục vụ cùng nhau như là một đơn vị: Đội 1 thuộc Hải đội Chiến trận 1, cùng với những chiếc trong lớpNassau trong thành phần Đội 2. Chúng đã tham gia hoạt động trongChiến tranh Thế giới thứ nhất, bao gồmTrận Jutland tạiBắc Hải vàTrận chiến vịnh Riga trongbiển Baltic. Cả bốn chiếc đều đã sống sót qua chiến tranh và đều không nằm trong bộ phận củaHạm đội Biển khơi Đức bị chiếm giữ tạiScapa Flow sau chiến tranh. Tuy nhiên, khi các con tàu Đức tại Scapa Flowbị đánh đắm, bốn chiếc trong lớpHelgoland được giao cho các cường quốc Đồng Minh thắng trận như nhữngchiến lợi phẩm thay thế cho những chiếc đã bị đánh chìm.Ostfriesland bịHải quân Hoa Kỳ chiếm và sử dụng như một mục tiêu khi TướngBilly Mitchell phô diễn sức mạnh không quân vàotháng 7 năm1921.Helgoland vàOldenburg lần lượt được giao choAnh Quốc vàNhật Bản, và đều bị tháo dỡ vào năm1921.Thüringen được chuyển choPháp vào năm1920, và được sử dụng như mộttàu mục tiêu choHải quân Pháp; nó cuối cùng bị tháo dỡ từ năm1923 đến năm1933.[3]
Sau khiHiệp ước Thân thiện Tam cường giữaAnh,Pháp vàNga được ký kết vào năm1907, Đức trở nên bị cô lập đáng kể ở giữa lục địaChâu Âu: họ bị bao vây giữa Pháp ở phía Tây và Nga ở phía Đông, cùng Anh Quốc với một lực lượng hải quân hùng mạnh có khả năng ngăn chặn Đức tiếp cận các tuyến đường biển thương mại quốc tế.Đô đốcAlfred von Tirpitz phản ứng lại bằng cách yêu cầu các tàu chiến chủ lực mới hơn và mạnh hơn. Suy nghĩ của ông về vấn đề này là: "Mục đích mà tôi nhắm đến... vì những lý do kỹ thuật và tổ chức cũng như những lý do chính trị và tài chính... là phải chế tạo càng đều đặn càng tốt."[4] Nguyện vọng của ông được thể hiện trong Bản Tu chính thứ hai của Đạo luật Hải quân, vốn được thông qua vào ngày27 tháng 3 năm1908.[4]
Về lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ hai của Đức, đã có những sự tranh luận đáng kể về những gì cần phải thay đổi so với thiết kế đầu tiên. Vàotháng 5 năm1906, Văn phòng Hải quân Đế chế (RMA,Reichsmarineamt) nhận được tin tức rằngAnh Quốc đang chế tạo thiết giáp hạm trang bị cỡ pháo 13,5 inch (34 cm)[chuyển đổi: tùy chọn không hợp lệ].[5] Kết quả là Bộ Tham mưu Hải quân Đức chủ trương tăng cỡ nòng của dàn pháo chính từ 28 cm (11 in) lên 30,5 cm (12,0 in). Đô đốc von Tirpitz rất miễn cưỡng để chấp nhận thay đổi này, ông muốn tránh việc đẩy nhanh hơn nữa cuộc chạy đua vũ trang với Anh.[6]
Sự ngần ngại của Đô đốc von Tirpitz trong việc tăng cường hỏa lực cho các con tàu mới biến mất khi người ta biết được vào đầu năm1907 rằngHải quân Hoa Kỳ đang chế tạo thiết giáp hạm với pháo 30,5 cm. Đếntháng 3 năm1907, von Tirpitz ra lệnh cho Văn phòng Chế tạo chuẩn bị một thiết kế với pháo 30,5 cm và đai giáp dày 320 mm (13 in).[6] Một số bàn cãi vẫn tồn tại về cách sắp xếp dàn pháo chính. Hai chiếc thuộclớp thiết giáp hạmMinas Geraes được chế tạo choBrasil bố trí cùng một số lượng pháo chính nhưng theo một sự sắp xếp hiệu quả hơn. Các đôi tháp pháo bắn thượng tầng được đặt ở hai đầu con tàu, cùng hai tháp pháo mạn giữa tàu. Đô đốc von Tirpitz chuộng áp dụng cách sắp xếp này cho lớpHelgoland, nhưng Văn phòng Chế tạo cảm thấy hai tháp bắn thượng tầng dễ dàng bị loại bỏ chỉ với một phát bắn trúng. Kết quả là cách sắp xếp hình lục giác khá bất thường của lớpNassau dẫn trước vẫn được giữ lại.[7]
Luật Hải quân quy định tuổi đời hoạt động của thiết giáp hạm được giảm từ 25 năm xuống còn 20 năm, điều này được thực hiện nhằm thúc đẩyQuốc hội Đức dành ngân sách cho các con tàu mới. Việc giảm tuổi thọ cũng đưa đến việc cần thay thế cáchải phòng hạm thuộc các lớpSiegfried vàOldenburg cũng như cácthiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộclớpBrandenburg. Những thiết giáp hạm mà von Tirpitz thất bại không thể đưa vào Tu chính thứ nhất của Luật Hải quân năm 1906 giờ đây được Quốc hội thông qua. Luật Hải quân cũng gia tăng ngân sách hải quân một ngân khoản bổ sung 1 tỉmark vàng.[4] Sau khi bốn chiếc thuộclớp tàu hộ tống bọc thépSachsen được thay thế bởi bốn chiếc thuộc lớpNassau, ba chiếc thuộc lớpSiegfried làSiegfried,Beowulf vàFrithjof cùng chiếc hải phòng hạm độc nhấtOldenburg là những tàu chiến tiếp theo được thay thế. Những chiếc thuộc lớpHelgoland, SMSHelgoland, SMSOstfriesland, SMSThüringen và SMSOldenburg, được đặt hàng dưới những cái tên tạm thời tương ứng làErsatz Siegfried,Ersatz Oldenburg,Ersatz Beowulf vàErsatz Frithjof.[8][Ghi chú 1]
Những chiếc trong lớpHelgoland dài hơn so với những chiếc dẫn trước, vớichiều dài chung 167,2 m (549 ft). Chúng cómạn thuyền rộng 28,5 m (94 ft) và độ sâu củamớn nước khi đầy tải là 8,94 m (29,3 ft). Các con tàu nặng hơn đáng kể so với lớpNassau: chúng cótrọng lượng choán nước tiêu chuẩn 22.808 tấn (22.448 tấn Anh) và lên đến 24.700 tấn (24.310 tấn Anh) khi đầy tải; nặng hơn những chiếc trước gần 4.000 tấn (3.900 tấn Anh).[1][Ghi chú 2] Các con tàu có 17ngăn kín nước, và khoảngđáy tàu kép chiếm 86%chiều dài củalườn tàu.[9]
Lớp tàu này có đặc tính vận hành được cải tiến đáng kể so với lớpNassau dẫn trước, chúng có đặc tính đi biển tốt và không mắc phải vấn đề lật nghiêng nặng màNassau phải chịu đựng. Các con tàu phản ứng tốt khi bẻ lái, có đường kính quay đầu nhỏ, và chỉ mất tốc độ tối thiểu khi sóng to. Các con tàu bị mất cho đến 54% tốc độ khi bẻ lái gắt, và nghiêng cho đến 7°.[3] Để so sánh, lớpNassau trước đó mất đến 70% tốc độ và nghiêng 12° khi bẻ lái gắt.[9]
LớpHelgoland giữ lại loạiđộng cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc đã lạc hậu thay vìđộng cơ turbine hơi nước đượcHải quân Hoàng gia Anh sử dụng. Quyết định này thuần túy là do chi phí: vào lúc đó hãngParsons nắm độc quyền về kỹ thuật turbine hơi nước, đã đòi hỏi 1 triệu mark vàng cho mỗi động cơ turbine.[10] Động cơ gồm 3 trục, 4 xy-lanh được bố trí trong ba phòng động cơ. Mỗi trục vận hành mộtchân vịt 4 cánh đường kính 5,1 m (17 ft). Hơi nước được cung cấp bởi 15 nồi hơi hàng hải, mỗi chiếc có 2 lò đốt, lên đến tổng cộng 30 lò. Động cơ có công suất thiết kế 28.000 ihp (21.000 kW) để đạt được tốc độ tối đa 20,5hải lý trên giờ (38,0 km/h; 23,6 mph). Khi chạy thử máy, hệ thống động lực đã cung cấp công suất 35.500 ihp (26.500 kW) và một tốc độ tối đa 21,3 hải lý trên giờ (39,4 km/h; 24,5 mph). Các con tàu chở theo 3.200 tấn (3.100 tấn Anh)than, sau này được cải biến để chở thêm 197 tấn (194 tấn Anh) dầu, vốn sẽ được phun vào than trong lò đốt để làm tăng tốc độ cháy.[Ghi chú 3] Khi đầy nhiên liệu, các con tàu có thể di chuyển 5.500 hải lý (10.200 km) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h). Điện năng cho con tàu được cung cấp bởi tám máy phát turbine, tạo ra công suất 2.000 kW điện xoay chiều với điện thế 225 V.[8]
Giống như lớpNassau dẫn trước, những chiếc thuộc lớpHelgoland được bố trí dàn pháo chính trên một hình lục giác khá bất thường. Mười hai khẩu pháo30,5 cm (12,0 in) SK L/50[Ghi chú 4] được đặt trên các bệ Drh LC/1908 thân dài, một phiên bản cải tiến so với kiểu LC/1907 và LC/1906 sử dụng cho lớpNassau. Chúng được bố trí thành cặp trên sáutháp pháo nòng đôi, gồm một tháp pháo đặt tại phía trước mũi và một sau đuôi tàu, và hai tháp pháo mỗi bên mạn tàu.[2] Thoạt tiên các tháp pháo này cho phép có góc hạ thấp đến −8° và nâng lên đến 13,5°; nhưng sau đó chúng được cải tiến để hạ thấp −5.5° và nâng lên 16°.[8] Các khẩu pháo bắn ra đầu đạn nặng 405 kilôgam (893 lb) với mộtlưu tốc đầu đạn 855 m/s (2.810 ft/s); ở góc nâng 13,5° cho phép một tầm bắn tối đa 18.700 m (20.500 yd), và khi được nâng cấp lên góc nâng 16°, tầm bắn được mở rộng lên đến 20.500 m (22.400 yd).[11] Các khẩu pháo được cung cấp tổng cộng 1.020 quả đạn pháo, 85 quả cho mỗi khẩu.[8]
Dàn pháo hạng hai của các con tàu bao gồm mười bốn khẩu pháo pháo15 cm (5,9 in) SK L/45 gắn trên cáctháp pháo ụ. Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo nặng 45,3 kilôgam (100 lb) ở lưu tốc đầu đạn 840 m/s (2.800 ft/s). Tháp pháo ụ này cho phép nâng lên đến 19°, cho phép một tầm bắn tối đa 14.950 m (16.350 yd). Các con tàu cũng mang theo mười sáu khẩu pháo 8,8 cm (3,5 in) SK L/45, cũng bố trí trong các tháp pháo ụ. Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo nặng 10 kilôgam (22 lb) ở lưu tốc đầu đạn 650 m/s (2.100 ft/s), và có thể xoay cho đến 25° cho một tầm bắn tối đa 9.600 m (10.500 yd).[11] Sau năm1914, hai khẩu 8,8 cm được tháo dỡ thay thế bằng hai khẩupháo phòng không 8,8 cm, rồi trong giai đoạn giữa năm1916 và1917, mười hai tháp pháo ụ 8,8 cm còn lại được tháo dỡ.[8] Các khẩu pháo phòng không này bắn ra đầu đạn hơi nhẹ hơn 9,6 kg (21 lb) ở lưu tốc đầu đạn 770 m/s (2.500 ft/s); chúng có thể nâng đến 45° và có thể bắn trúng mục tiêu cách xa 11.800 m (12.900 yd). Những chiếc trong lớpHelgoland còn được trang bị sáu ống phóngngư lôi chìm 50 cm (20 in); một ống trước mũi, một ống khác phía đuôi, và hai ống bên mỗi mạn tàu về phía cuốivách ngăn chống ngư lôi.[11]
Những chiếc trong lớpHelgoland được trang bịvỏ giáp Krupp, hầu như theo cùng sự sắp xếp như trên lớpNassau dẫn trước. Những điểm khác biệt chính là gia tăng đôi chút việc bảo vệ cho dàn pháo chính và pháo hạng hai, cùng một vỏ nóc dày hơn cho tháp chỉ huy phía trước.Đai giáp của con tàu ở chỗ mạnh nhất dày đến 30 cm (12 in), dành để bảo vệ những phần trọng yếu giữa tàu, và mỏng còn 8 cm (3,1 in) ở những vùng ít quan trọng như mũi và đuôi tàu. Phía sau đai giáp làvách ngăn chống ngư lôi dày 3 cm (1,2 in). Sàn tàu được bọc thép dày 5,5–8 cm (2,2–3,1 in).Tháp chỉ huy phía trước có nóc dày 20 cm (7,9 in) và các mặt hông dày 40 cm (16 in); trong khi tháp chỉ huy phía sau được bảo vệ kém hơn, với nóc dày 5 cm (2,0 in) và các mặt hông dày 20 cm (7,9 in). Các tháp pháo chính có nóc dày 10 cm (3,9 in) và mặt hông 30 cm (12 in); trong khi các tháp pháo ụ có vỏ giáp bảo vệ dày 17 cm (6,7 in) và các tấm chắn pháo dày 8 cm (3,1 in). Các con tàu cũng được trang bị lưới chống ngư lôi, nhưng chúng được tháo dỡ sau năm1916.[8]

Bốn chiếc trong lớp được đặt hàng dưới những cái tên tạm thờiErsatz Siegfried (Helgoland),Ersatz Oldenburg (Ostfriesland),Ersatz Beowulf (Thüringen) vàErsatz Frithjof (Oldenburg), như là sự thay thế cho ba chiếchải phòng hạm lớpSiegfried và chiếc hải phòng hạm SMSOldenburg. SMSHelgoland được chế tạo tạiHowaldtswerke,Kiel. Nó được đặt lườn vào ngày24 tháng 12 năm1908, được hạ thủy vào ngày25 tháng 8 năm1909, và đưa ra hoạt động gần hai năm sau đó vào ngày23 tháng 8 năm1911.
SMSOstfriesland được chế tạo tạiKaiserliche Werft Wilhelmshaven; nó được đặt lườn vào ngày19 tháng 10 năm1908, được hạ thủy năm ngày sau chiếc chị emHelgoland, vào ngày30 tháng 8 năm1909, và đưa ra hoạt động vào ngày1 tháng 8 năm1911. SMSThüringen được chế tạo bởi hãngAG Weser tạiBremen; nó được đặt lườn vào ngày7 tháng 11 năm1908, được hạ thủy vào ngày27 tháng 11 năm1909, và đưa ra hoạt động vào ngày10 tháng 9 năm1911. SMSOldenburg, chiếc cuối cùng, được chế tạo bởi hãngSchichau tạiDanzig; nó được đặt lườn vào ngày1 tháng 3 năm1909, được hạ thủy vào ngày30 tháng 6 năm1910, và đưa ra hoạt động vào ngày1 tháng 5 năm1912.[2][12]
Những chiếc trong lớpHelgoland đã hoạt động cùng nhau như một đơn vị củaHạm đội Biển khơi Đức; chúng đã phục vụ như là Đội 1 trực thuộc Hải đội Chiến trận 1. Chúng đã tham gia nhiều hoạt động của Hạm đội tạiBắc Hải, bao gồm cuộc xuất quân vào ngày31 tháng 5 năm1916 vốn đã đưa đếnTrận Jutland. Các con tàu cũng đã tham gia tác chiến một cách hạn chế tạibiển Baltic, chủ yếu là trongTrận chiến vịnh Riga bị bỏ dỡ vàotháng 8 năm1915.

Hoạt động lớn đầu tiên trongChiến tranh Thế giới thứ nhất mà lớpHelgoland tham gia là cuộcBắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby vào ngày15–16 tháng 12 năm1914. Cuộc bắn phá được tiến hành chủ yếu bởi cáctàu chiến-tuần dương thuộc Đội Tuần tiễu 1 của Phó Đô đốcFranz von Hipper. Những chiếc trong lớpHelgoland cùng với các lớpNassau,Kaiser vàKönig lên đường để hỗ trợ từ xa.Friedrich von Ingenohl, Tư lệnhHạm đội Biển khơi Đức, quyết định chiếm lấy vị trí ở khoảng giữa Bắc Hải, cách 130 hải lý về phía ĐôngScarborough.[13]
Hải quân Hoàng gia Anh, trước đó đã bắt được các bảng mật mã Đức từ chiếctàu tuần dươngMagdeburg bị mắc cạn, nhận biết một chiến dịch đang được tiến hành, nhưng không biết chắc nơi lực lượng Đức sẽ tấn công. Vì vậy,Bộ hải quân Anh ra lệnh cho Hải đội Tàu chiến-tuần dương 1 dưới quyền Đô đốcDavid Beatty, sáu thiết giáp hạm thuộc Hải đội Chiến trận 2 cùng nhiều tàu tuần dương và tàu khu trục ngăn chặn các tàu chiến-tuần dương Đức.[13] Tuy nhiên, hướng di chuyển lực lượng của Beatty hầu như đâm đầu thẳng vào toàn bộ Hạm đội Biển khơi. Lúc 6 giờ 20 phút, các tàu khu trục hộ tống cho lực lượng của Beatty bắt gặp xuồng phóng lôi ĐứcV155. Việc này đã dẫn đến một cuộc đối đầu lẫn lộn kéo dài hai giờ giữa các tàu khu trục Anh và lực lượng tàu tuần dương và tàu khu trục Đức, hầu hết ở khoảng cách rất gần. Vào lúc này của cuộc chạn trán đầu tiên, các thiết giáp hạm lớpHelgoland ở một vị trí cách các thiết giáp hạm dreadnought Anh không đầy 10 hải lý (19 km), hoàn toàn nằm trong tầm bắn; nhưng trong bóng đêm, các đô đốc của cả Anh lẫn Đức đều không thể nhận biết thành phần của hạm đội đối phương. Đô đốc Ingenohl, không dám bất tuân chỉ thị của Kaiser (Hoàng đế Đức) rằng không được mạo hiểm hạm đội chiến trận khi không có sự chấp thuận rõ ràng, kết luận rằng hạm đội của ông đang phải đối đầu với lực lượng hộ tống của toàn bộHạm đội Grand Anh Quốc, và 10 phút sau khi bắt gặp đối phương, ông ra lệnh bẻ lái sang mạn phải theo hướng Đông Nam. Các cuộc tấn công tiếp nối đã làm chậm trễ việc đổi hướng, nhưng đến 6 giờ 42 phút, nó được tiến hành.[14] Trong khoảng 40 phút, hai hạm đội di chuyển theo một hướng song song; và đến 7 giờ 20 phút, Ingenohl ra lệnh bẻ lái hơn nữa sang mạn phải, đưa các con tàu của mình theo một hành trình quay về vùng biển Đức.[15]
Nhiều người trong Hải quân Đức đã giận dữ đối với sự nhút nhát của Ingenohl, và uy tín của ông bị ảnh hưởng nghiêm trọng.Đại Đô đốc (Großadmiral)Alfred von Tirpitz lưu ý rằng "Vào ngày16 tháng 12, số phận của nước Đức đã nằm trong lòng bàn tay của Ingenohl. Cảm xúc của tôi trào dâng mỗi khi nghĩ đến điều đó".[16] Thuyền trưởng của chiếc tàu chiến-tuần dươngMoltke thậm chí còn gay gắt hơn; ông cho rằng Ingenohl đã rút lui "vì ông lo sợ mười một chiếc tàu khu trục Anh vốn có thể loại bỏ dễ dàng... Dưới sự lãnh đạo hiện thời chúng ta sẽ chẳng đạt được gì."[16]
Những chiếc trong lớpHelgoland còn xuất quân để hỗ trợ các tàu chiến-tuần dương Đức trongTrận Dogger Bank, nhưng đã không đụng độ với lực lượng Anh.[17]
Vào ngày3 tháng 8 năm1915, nhiều đơn vị hạng nặng của Hạm đội Biển khơi được chuyển sang khu vực Baltic để tham gia vào một cuộc xâm nhập vàovịnh Riga. Kế hoạch của Đức dự định đánh đuổi hoặc tiêu diệt lực lượng Hải quân Nga trong vịnh, bao gồm chiếcthiết giáp hạm tiền-dreadnoughtSlava, rồi sử dụngtàu rải mìnDeutschland để rải một loạt các bãi mìn ở eo biển Moon, lối ra vào phía Bắc của vịnh. Hạm đội được tập trung để tấn công, dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Hipper, bao gồm bốn thiết giáp hạmlớpNassau và bốn chiếc lớpHelgoland, các tàu chiến-tuần dươngSeydlitz,Moltke vàVon der Tann cùng một số tàu chiến nhỏ khác.[18] Tuy nhiên, bốn chiếc lớpHelgoland không tham gia vào trận chiến thực sự. Trong suốt chiến dịch, các con tàu được bố trí bên ngoài vịnh nhằm ngăn chặn lực lượng Nga tăng cường có thể ngăn trở việc rải mìn.[19]
Bãi mìn của chính người Nga lớn hơn so với dự định, nên việc quét sạch chúng mất nhiều thời gian hơn so với kế hoạch của Đức. Sự chậm trễ này còn kéo dài hơn do sự kháng cự quyết liệt của Hải quân Nga;Deutschland cuối cùng không thể rải mìn của chính nó. Các báo cáo về hoạt độngtàu ngầm của Đồng Minh trong khu vực đã buộc lực lượng hải quân Đức phải rút lui vào sáng ngày20 tháng 8.[20] Thực vậy, tàu chiến-tuần dươngMoltke đã trúng phảingư lôi phóng từ tàu ngầm AnhE1 vào ngày hôm trước, cho dù chỉ bị hư hại nhẹ.[21]
Những chiếc trong lớpHelgoland đã tham giaTrận Jutland bất phân thắng bại vào ngày31 tháng 5–1 tháng 6 năm1916. Trong hầu hết thời gian của trận chiến, Hải đội Thiết giáp 1 hình thành nên phần trung tâm củahàng chiến trận, phía sau Hải đội Thiết giáp III dưới quyềnChuẩn Đô đốc Behncke, và được nối gót bởi các thiết giáp hạm tiền-dreadnought già cỗi thuộc Hải đội Thiết giáp II của Chuẩn Đô đốc Mauve.Ostfriesland đã phục vụ như làsoái hạm của Đội 1 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc E. Schmidt.[22]

LớpHelgoland bắt đầu trực tiếp tác chiến lúc 19 giờ 20 phút trong ngày đầu của trận chiến.Ostfriesland,Helgoland vàThüringen đã khai hỏa vàoWarspite, vốn đang cùng với các chiếc khác thuộclớp thiết giáp hạmQueen Elizabeth của Hải đội Chiến trận 5 truy đuổi lực lượng tàu chiến-tuần dương Đức.[23] Ngoại trừOstfriesland, việc bắn pháo chỉ kéo dài bốn phút, vì hàng chiến trận Đức đang trong quá trình bẻ lái về hướng Đông Đông Bắc, nên các con tàu nhanh chóng mất dấu các thiết giáp hạm Anh.Thüringen vàHelgoland chỉ bắn khoảng 20 quả đạn pháo trước khi mất dấu mục tiêu.[24] Tuy nhiênOstfriesland tiếp tục nhìn thấy đối thủ cho đến 19 giờ 45 phút, lúc nó cũng ngừng bắn.[25] Đến 20 giờ 15 phút, sau cú "đổi hướng chiến trận" (Gefechtskehrtwendung)[Ghi chú 5] lần thứ ba,Helgoland bị một quả đạn pháo 15 in (38 cm) bắn trúng phần phía trước của con tàu. Phát đạn nổ xé toang một khoảng 20 foot (6,1 m) trên lườn tàu và rải một cơn mưa mảnh đạn xuống tháp pháo 5,9 inch đầu tiên bên mạn phải; con tàu bị ngập khoảng 80 tấn nước.[26]
Khoảng nữa đêm ngày1 tháng 6, những chiếc thuộc lớpHelgoland vàNassau ở trung tâm đội hình của hàng chiến trận Đức đã bắt gặp Chi hạm đội Khu trục 4 Anh Quốc. Một trận chiến đêm lộn xộn diễn ra, trong đó thiết giáp hạmNassau húc phải tàu khu trục AnhSpitfire. Chi hạm đội 4 tạm thời rút lui khỏi trận chiến để tái lập đội hình, rồi đến khoảng 01 giờ 00 lại vô tình đối đầu với những chiếc dreadnought Đức lần thứ hai.[27]Oldenburg vàHelgoland nổ súng vào hai tàu khu trục Anh dẫn đầu đội hình, nhưng một quả đạn pháo Anh đã phá hủy đèn pha phía trước củaOldenburg. Một cơn mưa mảnh đạn rải xuống cầu tàu làm bị thương chỉ huy con tàu,Đại tá Hải quân Hopfner, và giết chết người chỉ huy thứ hai,Trung tá Hải quân Rabius, cùng một số người khác trên cầu tàu, kể cả người lái tàu.Oldenburg tạm thời mất điều khiển; có nguy cơ húc phải tàu phía trước hoặc phía sau trong hàng. Bất kể đang bị thương, Hopfner đích thân bẻ lái tàu, đưa nó trở lại hàng.[28]
Không lâu sau 01 giờ 00,Thüringen vàNassau đụng độ vớitàu tuần dương bọc thép AnhBlack Prince.Thüringen khai hỏa trước tiên, phá hủyBlack Prince với tổng cộng 27 quả đạn pháo hạng nặng và 24 quả đạn pháo hạng hai.Nassau vàOstfriesland tham gia sau đó, rồi được nối gót bởiFriedrich der Große.[29]
Black Prince trình bày một cảnh tượng khủng khiếp và kinh hãi khi nó bùng cháy dữ dội, và sau nhiều vụ nổ nhỏ, nó biến mất dưới làn nước cùng toàn bộ thủy thủ đoàn sau một tiếng nổ lớn.[29]
Vào lúc này, hầu hết Chi hạm đội Khu trục 4 bị tiêu diệt. Một số ít còn lại bị hư hại nặng và phân tán, không thể tiếp tục tham gia trận chiến.[30]
Sau khi quay trở về vùng biển nhà,Helgoland vàThüringen cùng với các chiếcNassau,Posen vàWestfalen thuộc lớpNassau chiếm lấy những vị trí phòng thủ tại vũng biểnJadebusen trong đêm.[31] Trong trận chiến, lớpHelgoland chỉ chịu đựng những hư hại nhẹ.Helgoland bị bắn trúng một quả đạn pháo 15 inch, nhưng chỉ bị hư hại nhẹ.Oldenburg trúng một phát đạn pháo hạng hai khiến 8 người thiệt mạng và 14 người bị thương.Ostfriesland vàThüringen thoát ra khỏi trận chiến mà không bị hư hại, mặc dù trên đường quay về vùng biển nhà,Ostfriesland trúng phải một quảthủy lôi và phải được sửa chữa tạiWilhelmshaven.[31]

Những chiếc trong lớp không còn tham gia hoạt động nào đáng kể trong cuộc chiến, và được chuyển cho các nước Đồng Minh như nhữngchiến lợi phẩm theo những điều khoản củaHiệp ước Versailles.[17] Cả bốn chiếc được rút khỏi Đang bạ Hải quân Đức vào ngày5 tháng 11 năm1919.Helgoland được chuyển cho Anh Quốc và bị tháo dỡ vào năm1921 tạiMorecambe; biểu trưng trước mũi tàu của nó được giữ lại, và cuối cùng được trao trả về Đức; nó hiện đang được lưu giữ tạiBảo tàng Lịch sử Quân sự Liên bang tạiDresden.Oldenburg được giao choNhật Bản, nhưng họ không muốn giữ con tàu; thay vào đó, họ bán nó cho một hãng tháo dỡ của Anh, và được tháo dỡ tạiDordrecht vào năm1921.[3]Thüringen bịPháp chiếm; con tàu suýt bị thủy thủ của nó đánh đắm đang khi trên đường đi đếnCherbourg vào năm1920. Nó được sử dụng như một tàu mục tiêu cho đến khi nó bị mắc cạn vào năm1923 tạiGavres. Nó được tháo dỡ tại chỗ, nhưng một phần lớn lườn tàu vẫn còn dưới mặt nước.[17]
Ostfriesland được chuyển choHải quân Hoa Kỳ, và sau đó được sử dụng như một mục tiêu cố định trong một cuộc phô diễn sức mạnh không quân do TướngBilly Mitchell tiến hành vào ngày21 tháng 7 năm1921 ngoài khơimũi Henry thuộcVirginia. Con tàu bị chìm lúc 12 giờ 40 phút sau khi phải chịu đựng nhiều quả bom ném trúng đích lẫn suýt trúng.[3] Tuy nhiên, nó có thể tránh được kết cục này nếu như đang di chuyển; và nếu như bị đánh trúng, hoạt động của đội kiểm soát hư hỏng vẫn có thể giúp nó tiếp tục nổi.[17]
| "Helgoland (lớp thiết giáp hạm)" là mộtbài viết chọn lọc của Wikipedia tiếng Việt. Mời bạn xemphiên bản đã được bình chọn vào ngày 21 tháng 4 năm 2012 và so sánhsự khác biệt với phiên bản hiện tại. |