Bài viết này có nhiều vấn đề. Xin vui lòng giúpcải thiện hoặc thảo luận về những vấn đề này bêntrang thảo luận.(Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa những thông báo này) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)
|
| Trưng Nữ Vương 徵女王 | |||||||||
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hai Bà Trưng đánh đuổi quân giặc (tranh dân gian Đông Hồ) | |||||||||
| Nữ vươngnước Lĩnh Nam | |||||||||
| Tại vị | 40 -43 | ||||||||
| Đăng quang | 40 | ||||||||
| Tiền nhiệm |
| ||||||||
| Kế nhiệm |
| ||||||||
| Thông tin chung | |||||||||
| Sinh | 14 | ||||||||
| Mất | 43 (29 tuổi) | ||||||||
| |||||||||
| Thân phụ | Hùng Định (sau đổi thành Trưng Định) | ||||||||
| Thân mẫu | Man Thiện | ||||||||
| Chuyên đề |
| Lịch sử Việt Nam |
|---|
|
Hai Bà Trưng (14 – 43) là tên chỉ chung hai chị emTrưng Trắc (徵側) vàTrưng Nhị (徵貳), hai người phụ nữ được đánh giá làanh hùng dân tộc củangười Việt.[5] Trong sử sách, hai bà được biết đến như là những thủ lĩnh khởi binh chống lại chính quyền đô hộ củaĐông Hán, lập ra một quốc gia với kinh đô tạiMê Linh và Trưng Trắc tự phong làNữ vương. Thời kì của hai Bà xen giữa thời kỳBắc thuộc lần 1 vàBắc thuộc lần 2 tronglịch sử Việt Nam.Đại Việt sử ký toàn thư coi Trưng Trắc là một vịvua trong lịch sử, với tên gọiTrưng Nữ vương (徵女王).
Nguồn sử liệu đầu tiên đề cập đến chị em Hai Bà Trưng là cuốnHậu Hán Thư viết vào thế kỷ thứ 5 (Công nguyên) bởi học giảPhạm Diệp, cuốn sách nói về lịch sử nhà Hán từ năm 6 đến năm 189Công nguyên. Các tài liệu cổ của Trung Quốc đề cập đến hai chị em Bà Trưng khá ngắn gọn, được tìm thấy trong hai chương củaHậu Hán Thư mô tả về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà thời kỳnhà Tây Hán.

Ở quyển 86 củaHậu Hán Thư, phần "Tây Nam di liệt truyện" có viết:[6]
Bộ sử cổ nhất của Việt Nam đề cập đến Hai Bà Trưng làĐại Việt sử lược. Theo sách này, thời Việt Nam còn làGiao Chỉ, Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở huyệnMê Linh, lấy chồng làThi Sách ở huyệnChu Diên.
TheoĐại Việt sử ký toàn thư, Hai Bà Trưng vốn họLạc, là dòng dõi Lạc tướng ở Mê Linh. Chồng bà Thi Sách cũng là con Lạc tướng, con hai nhà tướng kết hôn với nhau. Khi lên ngôi, Hai Bà mới đổi sanghọ Trưng.[8]
Truyền thuyết xác nhận quê nội Hai Bà ở làng Hạ Lôi và quê ngoại Hai Bà ở làng Nam Nguyễn (nay thuộc huyệnBa Vì, thành phốHà Nội).[9] Mẹ Hai Bà làMan Thiện, còn được ghi với tên gọi Trần Thị Đoan.
Tuy nhiên, theo các sử gia hiện đại, thời đầuCông nguyên,người Việt chưa có họ. Tên Trần Thị Đoan của mẹ Hai Bà chỉ là tên thần phả đặt sau này, khoảng thế kỷ 17, 18. Cả cái tên Man Thiện có nghĩa làngười Man tốt có thể do người Hán gọi.[9] Theo một số dẫn chứng biện giải không rõ luận cứ và nguồn gốc cho rằng, tên của Hai Bà có nguồn gốc từ nghề dệtlụa truyền thống của Việt Nam, tương tự như cách đặt tên theo các loài cá của các vuanhà Trần sau này vốn xuất thân từ nghề chài lưới. Xưa kia nuôitằm, tổ kén tốt gọi làkén chắc, tổ kén kém hơn gọi làkén nhì; trứng ngài tốt gọi làtrứng chắc, trứng ngài kém hơn gọi làtrứng nhì. Do đó, theoNguyễn Khắc Thuần, tên Hai Bà vốn rất giản dị làTrứng Chắc vàTrứng Nhì, phiên theo tiếng Hán gọi làTrưng Trắc vàTrưng Nhị.[10][11] Khichữ Hán chưa được truyền bá hoặc chưa có điều kiện thấm sâu vào nhận thức xã hội thì xu hướng đặt tên người rất giản dị và mộc mạc, thể hiện sự gắn bó với cuộc sống đời thường và xu hướng này còn tiếp tục trong các thế hệ sau.[11] Sau này các sử gia phương Bắc viết chệch tên Hai Bà thành Trắc và Nhị với nghĩa "phản trắc" và "nhị tâm".[12] Tuy nhiên, những luận điểm trên hoàn toàn thiếu nguồn gốc và sự chứng minh một cách khoa học, mà thiên về tự biện giải của tác giả.
Tên của ông Thi Sách, theoThủy kinh chú của Trung Quốc xác định: chồng bà Trưng Trắc tên làThi.[13]

Cuộc nổi dậy của Trưng Trắc, theo Hán thư cùng Việt sử ghi lại, chỉ gói gọn trong lý do vì Thái thú khi ấy làTô Định dùng biện pháp khắc chế, nên Trưng Trắc cùng phẫn mà nổi dậy. Hán thư không đưa ra lý doThi Sách bị giết, trong khi Việt sử thì chỉ cóĐại Việt sử ký toàn thư ghi lý do này,Đại Việt sử lược trước đó thì không.
Theo một số học giả nhưĐào Duy Anh,Trần Quốc Vượng..., do chính sách đồng hóa gắt gao và bóc lột hà khắc củanhà Đông Hán đối với người Việt tại Giao Chỉ đương thời,[14][15] các Lạc tướngngười Việt liên kết với nhau để chống lại nhà Hán. Trưng Trắc kết hôn với con trai Lạc tướng ở Chu Diên là Thi Sách, hai nhà cùng có chí hướng chống Hán. Khoảng năm 39-40, nhằm trấn áp người Việt chống lại, Thái thú Tô Định giếtThi Sách.
Trưng Trắc và các Lạc tướng càng căm thù, cùngTrưng Nhị mang quân bản bộ về giữ Hát Giang nay là xãHát Môn, huyệnPhúc Thọ, Hà Nội.[16] Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 2 năm 40, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị chính thức phát động khởi nghĩa chống lại nhà Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội quân và nhân dân các nơi thuộcÂu Lạc vàNam Việt cũ.[17][18] Quân Hai Bà đánh hãm trị sởLuy Lâu. Tô Định phải chạy về Nam Hải (Trung Quốc).
Các quậnNam Hải,Cửu Chân,Nhật Nam,Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai Bà lấy được 65 thành ởLĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng làTrưng Nữ Vương, hay còn gọi làTrưng Vương.
Hai Bà Trưng cai trị lãnh thổ vùngLĩnh Nam của người Việt, tương đương với Bộ Giao Chỉ của nhà Hán trong ba năm. Thời gian cai trị ngắn ngủi và phải toan tính chuẩn bị chống lại cuộc chiến củanhà Hán khiến Hai Bà Trưng không có hoạt động gì đáng kể trong việc xây dựng lãnh thổ mà mình cai quản.

Do thời gian cai trị của Hai Bà Trưng không dài và không còn tài liệu để khôi phục lại hệ thống tổ chức bộ máy thời Hai Bà Trưng. Tuy nhiên, các sử gia căn cứ trên các sử liệu liên quan đến sự cai trị của nhà Hán trước và sau thời Hai Bà Trưng cho rằng, về cơ bản Hai Bà Trưng vẫn duy trì hệ thống quản lý của nhà Hán trước đó, do người Việt nắm giữ.[19] Các quận, huyện do nhà Hán lập ra trên đất Nam Việt cũ.
Ghi chép về Mê Linh trong hai tài liệu cổ nhất của Việt Nam, đều thuộc thờiHậu Lê và cách nhau 44 năm đã mâu thuẫn về kinh đô của Hai Bà:[20]
Dư địa chí củaNguyễn Trãi (năm 1434) chép: Mê Linh là Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc bây giờ... huyện Phúc Lộc là Mê Linh ngày xưa
Đại Việt sử ký toàn thư (năm 1479) chép: Thời Tây Hán trị sở của thái thú (Giao Châu) tại Long Uyên tức Long Biên. Thời Đông Hán tại Mê Linh tức Yên Lãng.
Do đó, ba thế kỷ sauLê Quý Đôn viếtVân đài loại ngữ (năm 1773) rất lộn xộn, chép Yên Lãng thuộc về ba quận khác nhau cùng tồn tại trong một thời kỳ: Mê Linh nay là Yên Lãng... Phong Khê là đất Yên Lãng... Chu Diên nay là Yên Lãng
Cương mục nhà Nguyễn chép: Mi Linh là Phong Châu... ở địa phận hai huyệnPhúc Lộc vàĐường Lâm
Do đó đã xuất hiện các tranh cãi về Mê Linh, một số cho rằng Mê Linh ở phía nam sông Hồng và số khác cho là ở phía bắc, ngay gầnthành Cổ Loa củaThục Phán. Ở huyệnYên Lãng này cũng có làng Hạ Lôi nhưng không có tên Nôm. Năm 1977 huyện này được đổi tên thành Mê Linh.[21]
Từ năm 1973-1990, nhà nghiên cứu Đinh Văn Nhật[22] sử dụng phương pháp địa lý học lịch sử để nghiên cứu về các địa danh thời Hai Bà Trưng. Ông sau đó kết luận huyện Mê Linh nằm ở phía nam sông Hồng, cụ thể là phía tâysông Đáy của Hà Nội. Ở đây có các địa danh làCấm Khê, Hạ Lôi,Đền Hát Môn và Miếu Mèn thờ mẹ Hai Bà là Bà Man Thiện. Các bài viết đều đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
QuậnGiao Chỉ được xác định vị trí là đất Bắc BộViệt Nam và một phần phía tây nam tỉnhQuảng Tây (Trung Quốc) hiện nay (từ sông Uất hayTây Giang về phía nam), trừ đi những phần đất sau:
QuậnGiao Chỉ gồm có 10 huyện (縣) theo Đào Duy Anh như sau:[24]
Quận trị Giao Chỉ lần lượt đặt ởMê Linh,Luy Lâu vàQuảng Tín.
QuậnCửu Chân thời Hán được xác định vị trí từ góc tây nam tỉnhNinh Bình đến tỉnhHà Tĩnh hiện nay.[25]
Quận trị Cửu Chân được xác định ở huyệnTư Phố.Cửu Chân gồm có bảy huyện như sau:[26]
Vị tríNhật Nam được xác định là từQuảng Bình tới địa giớiBình Định,Phú Yên hiện nay.[27]
Nhật Nam gồm có năm huyện như sau:[28]
QuậnHợp Phố gồm năm huyện: Hợp Phố (合浦),Từ Văn (徐聞), Cao Lương (高涼), Lâm Nguyên (臨元), Chu Nhai (朱崖).
Hợp Phố được xác định vị trí là vùng duyên hảivịnh Bắc Bộ tỉnhQuảng Tây và địa cấp thịTrạm Giang tỉnh Quảng Đông.
QuậnThương Ngô gồm có 10 huyện:Quảng Tín (廣信), Tạ Mộc (謝沐), Cao Yếu (高要), Phong Dương (封陽), Lâm Hạ (臨賀), Đoan Khê (端谿), Phùng Thừa (馮乘), Phú Xuyên (富川), Lệ Phổ (荔浦), Mãnh Lăng (猛陵).
Thương Ngô thời Hán được xác định vị trí tương đương với khu vực dãy núi Đô Bàng tỉnhQuảng Tây, phía đông núi Đại Dao, địa cấp thịTriệu Khánh tỉnh Quảng Đông, phía tây huyện cấp thịLa Định, huyệnGiang Vĩnh tỉnh Hồ Nam, phía nam huyệnGiang Hoa, huyệnĐằng tỉnh Quảng Tây, phía bắc thành phố cấp huyệnTín Nghi tỉnh Quảng Đông.
QuậnUất Lâm thời Hán gồm có 12 huyện:Bố Sơn (布山), An Quảng (安廣), Hà Lâm (河林), Quảng Đô (廣都), Trung Lưu (中留), Quế Lâm (桂林), Đàm Trung (譚中), Lâm Trần (臨塵), Định Chu (定周), Lĩnh Phương (領方), Tăng Thực (增食), Ung Kê (雍雞).
Uất Lâm được xác định vị trí là từ các địa cấp thịNam Ninh,Bách Sắc đến đại bộ phậnLiễu Châu, phía bắcNgọc Lâm, phía đông và phía namHà Trì đều thuộcQuảng Tây.
QuậnNam Hải gồm có sáu huyện:Phiên Ngung (番禺), Trung Túc (中宿), Bác La (博羅), Long Xuyên (龍川), Tứ Hội (四會), Yết Dương (揭陽).
Nam Hải được xác định vị trí bao trùm tỉnhQuảng Đông và phần đất phía đông nam tỉnhQuảng Tây, Trung Quốc hiện nay.
Như vậy tổng số huyện thành đương thời chỉ có 54 huyện. Ngô Sĩ Liên dẫn thêm hai huyện mới đặt trong quận Giao Chỉ là Vọng Hải và Phong Khê do Mã Viện mới tách đặt sau thời Hai Bà Trưng, được chép gộp vào danh sách các huyện thuộc Giao Chỉ lúc đó, tổng cộng là 56 huyện thành.[29]
TheoViện Sử học, đội ngũ các cánh quân mới tập hợp của các Lạc hầu, Lạc tướng, thủ lĩnh địa phương chưa có điều kiện tổ chức theo kiểu chính quy thành các đơn vị, quân thứ kiểu hệ thống, cấp bậc quy củ như các triều đại sau này. Thành phần họ gồm bình dân trong kẻ, chạ... gia nô, nô tỳ thuộc quyền quản lý của các thủ lĩnh vùng. Các sử gia nhìn nhận lực lượng mới họp này chưa được tổ chức chặt chẽ nên có những yếu điểm bộc lộ trong cuộc chiến chống Mã Viện sau này.[30]
Sử sách không ghi lại bất cứ hoạt động chính trị nào khác thời kì này. Ngoại trừViện Sử học ghi lại một sự kiện duy nhất liên quan tới kinh tế thời Hai Bà Trưng là Trưng vương cho xá thuế trong hai năm cho dân chúng. Luật pháp chưa có văn bản chính thức. Các sử gia xác định luật thời Hai Bà Trưng là một thứ “tập quán pháp”, “luật tục” của nhiều đời trước được khôi phục và sử dụng điều hành xã hội.[31][32]
SáchHậu Hán thư củaPhạm Diệp dẫn lời tâu báo của Mã Viện lên Hán Quang Vũ Đế rằng luật Việt khác với luật nhà Hán đến hơn 10 điều.[33][34]
Ngày30 tháng 1 nămTân Sửu (41),nhà Hán thấy Trưng Trắc xưng Vương dấy quân đánh lấy các thành ấp, nên hạ lệnh cho các quận Trường Sa,Hợp Phố vàGiao Châu sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các núi khe, chứa thóc lương, choMã Viện làmPhục Ba tướng quân, Phù Lạc hầuLưu Long làm phó tướng, chỉ huy đạo quân lớn khoảng 2 vạn người, chia làm 2 cánh thủy, bộ sang xâm lược.
Cánh quân bộ tiến vào vùng Đông Bắc Mã Viện tiến theo đường ven biển, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đếnLãng Bạc (ở phía tây Tây Nhai củaLa Thành)[35] đánh nhau với Hai Bà. Quân Nam bấy giờ ô hợp, rất nhiều thủ lĩnh không phục hai vua là đàn bà, lớp tan rã, lớp tự ly khai hoặc đầu hàng quân Hán. Hai Bà thấy thế giặc mạnh lắm, không chống nổi, bèn lui quân về giữCấm Khê (sử chép là Kim Khê).
NămQuý Mão (43), Hai Bà Trưng chống cự lại với quân nhà Hán ởCấm Khê (nay thuộc huyệnThạch Thất,Hà Nội) thất thế, đều tử trận. Theo truyền thuyết Việt Nam, Hai Bà đã nhảy xuốngsông Hát (tức sông Đáy, nay thuộc xãHát Môn, huyệnPhúc Thọ, thành phốHà Nội) tự vẫn để bảo toàn khí tiết. Còn theoHậu Hán thư, sách sử củaTrung Quốc, Hai Bà đã bị quân Mã Viện bắt được và chặt đầu đem vềLạc Dương.[36]
Tướng Đô Dương tiếp tục cầm quân chống lại quân Hán đến cuối năm 43. Mã Viện đuổi theo đánh quân còn sót lại huyện Cư Phong, cuối cùng lực lượng này cũng bị dẹp. Ngoài các cừ súy bị giết, hơn 300 cừ súy người Việt bị bắt và đày sang Linh Lăng (Hồ Nam). Mã Viện thu gom, phá hủy nhiều trống đồng và đúc rồi dựngcột đồng (tương truyền ở trên động Cổ Lâu châu Khâm)[37] làm giới hạn biên giới của nhà Hán, và khắc lên đó dòng chữ thề: "Cột đồng gãy thìGiao Chỉ diệt" (Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt).[38]
Từ đây, nước Việt lại thuộc quyền kiểm soát củanhà Hán, bắt đầu thờiBắc thuộc lần 2. Thời kỳ Hai Bà Trưng chỉ kéo dài được hơn ba năm.
Sau khi Hai Bà Trưng thất bại, chế độ giao quyền cai quản cấp huyện ở Bộ Giao Chỉ cho các Lạc tướng không còn, quyền lực của các Lạc tướng, Lạc hầu bị thủ tiêu. Theo như cách gọi của sử gia Madrolle thì chế độ bảo hộ chấm dứt, bắt đầu chế độ cai trị trực tiếp. Nhà Hán đặt quan lại cai trị đến cấp huyện.[39]
Sử giaLê Văn Hưu viết trongĐại Việt sử kýtoàn thư:[8]
Theo sử giaNguyễn Nghiễm thờiLê trung hưng:[40]
VuaTự Đức viết trongKhâm định Việt sử Thông giám cương mục[41]:
Hai Bà Trưng và hàng chục, hàng trăm nữ tướng tham gia phong trào kháng Hán, được người Việt Nam hiện đại xem là một biểu tượng đáng tuyên dương và tôn sùng. Theo quan điểm này, việc khởi nghĩa này đã góp phần tạo nên truyền thống anh hùng bất khuất cho giới nữ và cho cả dân tộc Việt Nam. Nguyên lý Mẹ và sắc thái bình quyền trai gái in đậm nét trong nền văn hóa dân tộc, dân gianViệt Nam đến nỗi nhiều học giả cho rằng đấy là điểm vượt trội không còn phải bàn cãi gì nữa củaViệt Nam so vớiTrung Quốc vàphương Tây.[42]
| “ | ...trong khoảng năm thứ 40 sau Công nguyên, hai chị em người Việt Nam là Hai Bà Trưng đã đứng lên khởi nghĩa chống ngoại xâm, thức tỉnh tinh thần độc lập. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử mà người dân Việt Nam đứng lên vì nền độc lập cũng như niềm tự hào của mình. | ” |
| — Tổng thống MỹDonald Trump[43] | ||

Hiện nay, trên cả nước Việt Nam có 103 nơi thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh ở 9 tỉnh, thành phố như:Vĩnh Phúc,Phú Thọ,Hà Nội,Hải Phòng,Thái Bình,Ninh Bình trong đó riêng huyện Mê Linh có 25 di tích ở 13 xã.[44]
Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn kể về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã trở thành quen thuộc đối với người Việt:
Bài hátHồn tử sĩ có nguyên bản là Hát Giang Trường Hận, gợi nhớ đến công ơn và sựhy sinh của Hai Bà Trưng.

Hàng năm, vào ngày 6 tháng 2âm lịch, ngày giỗ hay lễ hội tưởng nhớ Hai Bà được tổ chức là ngày lễ chính thức củaViệt Nam Cộng hòa từ năm 1955 đến 1975 códiễu hành.[47] Ngày này cũng làNgày Phụ nữ Việt Nam của miền Nam Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Từ năm1976 trở đi, sau khi hai miềnthống nhất thì ngày lễ Hai Bà Trưng không còn là ngày lễ ởViệt Nam nữa.
Về sau, về truyền thuyết Hai Bà Trưng đã được lan rộng khắp người dân Việt Nam nhiều thế hệ sau này, và hình tượng của 2 bà tiếp tục được đưa vào những trò chơi dân gian, truyện tranh và tác phẩm thơ văn.
{{Chú thích tạp chí}}: Quản lý CS1: định dạng ngày tháng (liên kết)| Tiền nhiệm: Bắc thuộc lần I (Lịch sử Việt Nam) | Triều đại Việt Nam 40-43 | Kế nhiệm: Bắc thuộc lần II (Lịch sử Việt Nam) |