Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

HMSHero (H99)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Về những tàu chiến Anh Quốc khác mang cùng tên, xin xemHMS Hero.
Về những tàu chiến Canada khác mang cùng tên, xin xemHMCS Chaudière.
HMS Hero
Tàu khu trục HMSHero (H99)
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọiHMSHero (H99)
Đặt hàng13 tháng 12 năm1934
Xưởng đóng tàuVickers-Armstrongs,Newcastle-on-Tyne
Kinh phí249.858Bảng Anh
Đặt lườn28 tháng 2 năm1935
Hạ thủy10 tháng 3 năm1936
Nhập biên chế23 tháng 10 năm1936
Số phậnChuyển choHải quân Hoàng gia Canada,15 tháng 11 năm1943
Lịch sử
Canada
Tên gọiHMCSChaudière
Nhập biên chế15 tháng 11 năm1943
Xuất biên chế17 tháng 8 năm1945
Xóa đăng bạ19 tháng 3 năm1946
Đặc điểm khái quát
Lớp tàuLớp tàu khu trục H
Trọng tải choán nước
  • 1.340 tấn Anh (1.360 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.859 tấn Anh (1.889 t) (đầy tải)
Chiều dài323 ft (98,5 m)
Sườn ngang33 ft (10,1 m)
Mớn nước12 ft 5 in (3,8 m)
Động cơ đẩy
Tốc độ36hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph)
Tầm xa5.530 nmi (10.240 km; 6.360 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 137 (thời bình),
  • 146 (thời chiến)
Hệ thống cảm biến và xử lýASDIC
Vũ khí

HMSHero (H99) là mộttàu khu trụclớp H đượcHải quân Hoàng giaAnh Quốc chế tạo vào giữanhững năm 1930. Trong cuộcNội chiến Tây Ban Nha vào các năm19361939, nó thực thi chính sách cấm vận vũ khí mà Anh vàPháp áp đặt cho các bên xung đột trong thành phầnHạm đội Địa Trung Hải. Trong những tháng đầu tiên củaChiến tranh Thế giới thứ hai, nó để truy lùng cáctàu cướp tàu buônĐức tạiẤn Độ Dương và tham giatrận Narvik thứ hai trongChiến dịch Na Uy vàotháng 4-tháng 6 năm1940 trước khi được điều quay trở lại Địa Trung Hải vàotháng 5 để hộ tống cácđoàn tàu vận tải Malta. Con tàu đã tham giatrận chiến mũi Spada vàotháng 7 năm1940;Chiến dịch Abstention vàotháng 2 năm1941 cũng như trong việc triệt thoái binh lính Đồng Minh khỏiHy LạpCrete vàotháng 4-tháng 5 năm1941.

Hero đã bảo vệ cho cuộc đổ bộ trongChiến dịch Syria–Lebanon vàotháng 6 năm1941, rồi hộ tống các đoàn tàu tiếp liệu đếnTobruk,Libya không lâu sau đó. Nó bị hư hại bởimáy bay ném bom bổ nhào Đức đang khi cứu vớt những người sống sót từ chiếctàu rải mìnLatona vàotháng 10 năm1941, rồi tiếp tục hộ tống các chuyến vận tải đến Malta. Nó tham giaTrận Sirte thứ hai vàotháng 3 năm1942Chiến dịch Vigorous vàotháng 6, đánh chìm haitàu ngầm Đức trong năm1942, rồi được điều quay trở về nhà vào cuối năm để được cải biến thành một tàu khu trục hộ tống. Con tàu được chuyển choHải quân Hoàng gia Canada vào năm1943 và đổi tên thành HMCSChaudière, tham giaLực lượng Hộ tống giữa đại dương vào đầu năm1944 trước khi được điều trở lại khu vực duyên hải Anh vàotháng 5 để bảo vệ lực lượng được tập trung chochiến dịch Overlord. Cùng với các con tàu khác, nó đánh chìm thêm ba tàu ngầm Đức trong năm đó.Chaudière đang được tái trang bị khi xung đột kết thúc tạiChâu Âu vàotháng 5 năm1945. Ở trong tình trạng vật chất tệ hại, con tàu được cho ngừng hoạt động vàotháng 8 và bị bán để tháo dỡ sau đó. Tuy nhiên việc tháo dỡ chỉ hoàn tất vào năm1950.

Thiết kế và chế tạo

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Lớp tàu khu trục G và H

Herotrọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.340 tấn Anh (1.360 t), và lên đến 1.859 tấn Anh (1.889 t) khi đầy tải. Nó có chiều dài chung 323 foot (98,5 m), mạn thuyền rộng 33 foot (10,1 m) và độ sâu của mớn nước là 12 foot 5 inch (3,8 m). Nó được dẫn động bởi haiturbine hơi nướcParsons truyền động ra hai trục chân vịt, sản sinh tổng công suất 34.000mã lực càng (25.000 kW), cho phép nó đạt tốc độ tối đa 36hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph). Hơi nước được cung cấp bởi banồi hơi ống nước Admiralty.Hero có thể mang theo tối đa 470 tấn Anh (480 t)dầu đốt, cho phép một tầm hoạt động tối đa 5.530hải lý (10.240 km; 6.360 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph). Thành phần thủy thủ đoàn của nó bao gồm 137 sĩ quan và thủy thủ trong thời bình,[1] nhưng tăng lên đến 146 người trong thời chiến.[2] Khi phục vụ cùng Canada, thủy thủ đoàn của nó bao gồm 1đ sĩ quan và 171 thủy thủ.[3]

Con tàu được trang bị bốn khẩupháo QF 4,7 inch (120 mm) Mk. XII L/45 trên các tháp pháo nòng đơn. Cho mục đíchphòng không,Hero có hai khẩu độisúng máy0,5 in (13 mm) Mk.III bốn nòng. Nó còn có hai bệ ống phóngngư lôi bốn nòng trên mặt nước dành chongư lôi 21 in (530 mm).[1] Một đường ray thảmìn sâu và hai máy phóng được trang bị; ban đầu nó mang theo 20 quả mìn sâu, nhưng được tăng lên 35 quả không lâu sau khi chiến tranh bắt đầu.[4] Đến giữa năm1940, số lượng mìn sâu mang theo là 44 quả.[5]

Hero được đặt hàng cho hãngParsons Marine Steam Turbine Company vào ngày13 tháng 12 năm1934 trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1934. Nó được gia công bởi nhà thầu phụVickers-Armstrongs và được đặt lườn tại xưởng tàu High Walker ởNewcastle-on-Tyne, Anh vào ngày28 tháng 2 năm1935; được hạ thủy vào ngày10 tháng 3 năm1936 và hoàn tất vào ngày21 tháng 10 năm1936 với chi phí 249.858Bảng Anh, không tính đến các thiết bị do Bộ Hải quân Anh cung cấp như vũ khí, đạn dược và thiết bị thông tin liên lạc.[6]

Các cải biến trong chiến tranh

[sửa |sửa mã nguồn]

Hầu hết những chiếc còn sống sót cùng lớp vớiHero có dàn ống phóng ngư lôi phía sau thay bằng một khẩuQF 12 pounder 3 inch (76,2 mm) phòng không vào năm1940, tuy nhiên không thể biết rõ nó có được nâng cấp hay không vì đang được bố trí tại Địa Trung Hải cho đến năm1943. Các thay đổi khác trước khi được cải biến thành một tàu khu trục hộ tống vào năm1943 bao gồm thay thế các khẩu đội súng máy Vickers bốn nòng giữa các ống khói bằngpháo tự độngOerlikon 20 mm, đồng thời hai khẩu Oerlikon 20 mm khác được tăng cường trên bệ đèn pha cùng một cặp khác hai bên cánh củacầu tàu. Tháp điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa bên trên cầu tàu nhiều khả năng được thay bằngradar Kiểu 271 điều khiển hỏa lực vào lúc cải biến, cũng như thay thế tháp pháo ‘B’ bằng dànsúng cốiHedgehog chống tàu ngầm, và tăng cường radar Kiểu 286 dò tìm mặt đất tầm ngắn. Con tàu cũng được bổ sung máyđịnh vị vô tuyếnHF/DF đặt trên cột ăn-ten.[7] Tháp pháo ‘Y’ được tháo dỡ lấy chỗ để mang thêm mìn sâu. Đến cuối chiến tranh, radar Kiểu 286 được thay thế bằng radar Kiểu 291 hiện đại hơn.[8]

Lịch sử hoạt động

[sửa |sửa mã nguồn]

HMSHero

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau khi nhập biên chế,Hero được phân về Chi hạm đội Khu trục 2 trực thuộcHạm đội Địa Trung Hải, và đã tuần tra tại vùng biểnTây Ban Nha để thực thi chính sách cấm vận vũ khí đến các bên xung đột trong cuộcNội chiến Tây Ban Nha. Nó trải qua một đợt tái trang bị tại Anh từtháng 6 đếntháng 7 năm1939. Gia nhập trở lại Hạm đội Địa Trung Hải sau khi hoàn tất, nó ở lại đây cho đến ngày5 tháng 10, khi nó được chuyển đếnFreetown,Sierra Leone để truy lùng cáctàu cướp tàu buônĐức tạiNam Đại Tây Dương cùngLực lượng K.Hero quay trở về Anh vàotháng 1 năm1940 và lại trải qua một đợt tái trang bị tạixưởng tàu Portsmouth từ ngày15 tháng 2 đến ngày16 tháng 3. Vào thời gian này, Chi hạm đội Khu trục 2 được phân vềHạm đội Nhà, và nó gia nhập trở lại hải đội sau khi hoàn tất việc nâng cấp.[9]

Bản đồ vũng biểnOfotfjord

Vào ngày5 tháng 4,Hero hộ tống cho chiếctàu chiến-tuần dươngRenown khi nó bảo vệ cho cáctàu rải mìn tiến hànhChiến dịch Wilfred, một hoạt động rảimìnVestfjord nhằm ngăn chặn việc vận chuyển quặngsắtThụy Điển từNarvik đến Đức. Nó cùng với tàu chị emHyperion dự định rải một bãi mìn ngoài khơiBud, Na Uy vào ngày8 tháng 4, và báo cáo vị trí cho phíaNa Uy.Hero đã cùng tàu khu trụcFoxhound kéo thiết bị quét mìn đi trướcthiết giáp hạmWarspite và các tàu hộ tống khi chúng xâm nhập Vestfjorden đối đầu với các tàu khu trục Đức tại Narvik vào ngày13 tháng 4. Nó cùng ba tàu khu trục khác truy đuổi các tàu chiến Đức còn lại đếnRombaksfjorden (nhánh cực Đông của Ofotfjord, phía Đông Narvik), nơi các tàu khu trục Đức rút lui do hết đạn. Hầu hết các tàu Đức đã tự đánh đắm và mắc cạn ở đầu vũng biển, nhưng liều chất nổ trên chiếc tàu khu trụcZ18 Hans Lüdemann đã không kích nổ, và một đội đổ bộ nhỏ củaHero đã lên tàu. Họ không tìm thấy gì đáng kể vì con tàu đã bị bỏ lại, và một quảngư lôi được phóng vào nó để ngăn cản các nỗ lực trục vớt.[10]

Hero được chuyển trở lại Hạm đội Địa Trung Hải vào ngày17 tháng 5 trong thành phần Chi hạm đội Khu trục 2 được tái lập. TrongTrận chiến mũi Spada vào ngày19 tháng 7, nó đã hộ tống chotàu tuần dương hạng nhẹAustraliaSydney, và đã cùng các tàu khác cứu vớt 525 người sống sót từ chiếc tàu tuần dươngÝBartolomeo Colleoni.[11] Cùng với tàu chị emHostile và các tàu khu trụcNubianMohawk, nó được lệnh đi đếnGibraltar vào ngày22 tháng 8, nơi chúng gia nhậpLực lượng H.Hostile trúng phải một quả mìn trên đường đi vào sáng ngày23 tháng 8 ngoài khơimũi Bon khiến lườn tàu bị vỡ. Vụ nổ làm thiệt mạng năm người và bị thương ba người khác.Mohawk đã cứu vớt những người sống sót trong khiHero phóng hai quả ngư lôi đánh đám nó.[12] Con tàu tham giaChiến dịch Hats, một đợt vận tải tăng viện đếnMalta, trongtháng 9 trước khi được tái trang bị tại đây vàotháng 11. Nó lên đường đi Bắc Đại Tây Dương khi Đoàn tàu Vận tải WS-5A báo cáo bị tàu tuần dương ĐứcAdmiral Hipper tấn công vào ngày25 tháng 12 để tập trung các tàu buôn bị phân tán.[11]

Vào ngày1 tháng 1 năm1941,Hero là một trong các con tàu đã ngăn chặn một đoàn tàu vận tải của pheVichy Pháp ngoài khơiMellila và bắt giữ toàn bộ bốn chiếc tàu buôn.[13] Nó tham giaChiến dịch Excess vào đầutháng 1 năm1941 rồi được chuyển trở lại Hạm đội Địa Trung Hải sau đó.[11] Vào ngày27 tháng 2, nó triệt thoái một số nhỏ lính biệt kích Anh sống sót khỏi đảoKastelorizo vốn đã tấn công chiếm đảo này trongChiến dịch Abstention. Đến giữatháng 4, nó hộ tống cho tàu vận chuyển nhanh cùng ba thiết giáp hạm đi từAlexandria đến Malta, trước khi tiếp tục hộ tống các thiết giáp hạm khi chúng bắn pháTripoli vào ngày20 tháng 4. Sau khi được tiếp nhiên liệu tại Alexandria vào ngày23 tháng 4,Hero khởi hành điHy Lạp để giúptriệt thoái binh lính Anh và khối Thịnh Vượng Chung khỏi các bãi biển. Trongcuộc triệt thoái khỏiCrete, nó đã cùng tàu khu trục di tảnVua George II cùng đoàn tùy tùng trong đêm22-23 tháng 5.[14]

Hero đã hộ tống chotàu đổ bộ bộ binh (LSI)Glengyle khi chiếc này tiến hành một chiến dịch đổ bộ vào đầutháng 6 năm1941 lên bờ biểnLi băng trong giai đoạn mở màn củaChiến dịch Exporter.[15] Nó trải qua hầu hết thời gian còn lại của năm hộ tống các đoàn tàu vận tải tăng viện choTobruk.[11] Cùng với tàu chị emHotspur và tàu khu trụcEncounter, nó hộ tống cho chiếcLatona vào ngày25 tháng 10 trên đường đi Tobruk.[16] Chúng bịmáy bay ném bom bổ nhào ĐứcJunkers Ju 87Stuka tấn công, đánh trúngLatona khiến nó bốc cháy.[17]HeroEncounter tiếp cận để cứu vớt thủy thủ đoàn và hành khách trước khihầm đạn củaLatona kích nổ;Hero bị hư hại do ba quả bom ném suýt trúng đang khi cặp theoLatona. Con tàu quay trở về Alexandria để sửa chữa,[16] rồi hộ tống một đoàn tàu vận tải khác đến Malta vàotháng 1 năm1942.[18] Nó tham giaTrận Sirte thứ hai vào ngày22 tháng 3 đang khi hộ tống một đoàn tàu vận tải đi đến Malta. Vào ngày29 tháng 5, cùng với các tàu khu trụclớpHuntEridgeHurworth, nó đã đánh chìm tàu ngầmU-568 về phía Đông Bắc Tobruk ở tọa độ32°42′B24°53′Đ / 32,7°B 24,883°Đ /32.700; 24.883, và cứu vớt được 42 người sống sót.[19]

Trong Chiến dịch Vigorous vàotháng 6,Hero tham gia thành phần hộ tống cho lực lượng bảo vệ của Hạm đội Địa Trung Hải cho đoàn tàu vận tải hướng đến Malta. Vào lúc này con tàu chưa được trang bịradar.[20] Sau khiQuân đoàn châu Phi chiếm đượcMersa Matruh vào cuốitháng 6,Bộ Hải quân Anh ra lệnh cho cáctàu tiếp liệu tàu ngầmMedway và chiếcCorinthia của Hy Lạp chuyển đếnHaifa, nhưngMedway trúng phải ngư lôi và chìm trên đường đi cho dù có một lực lượng hộ tống mạnh mẽ.[21]Hero và tàu khu trụcZulu đã cứu vớt 1.105 người sống sót. Đến ngày17 tháng 8, nó lại cứu vớt khoảng 1.100 người sống sót từ chiếc tàu chở quânPrincess Marguerite bị trúng ngư lôi. Phối hợp với bốn tàu khu trục khác và mộtmáy bay ném bom hạng nhẹVickers Wellesley củaKhông quân Hoàng gia Anh,Hero đã đánh chìm tàu ngầmU-559 ở khoảng cách 60 hải lý (110 km; 69 mi) về phía Đông BắcPort Said vào ngày30 tháng 10. Con tàu sau đó được lệnh quay trở về Anh ngang quamũi Hảo Vọng, để được cải biến thành một tàu khu trục hộ tống.[19]

HMCSChaudière

[sửa |sửa mã nguồn]

Công việc cải biến được thực hiện tại Portsmouth kéo dài từtháng 4 đếntháng 11 năm1943, vàHero được chuyển choHải quân Hoàng gia Canada như một món quà vào ngày15 tháng 11 năm1943, và được đổi tên thành HMCSChaudière. Sau khi hoàn tất việc thử máy, nó được phân về Đội hộ tống C2 vàotháng 2 năm1944, đặt căn cứ tạiDerry. Vào ngày6 tháng 3 năm1944, đang khi hộ tống cho Đoàn tàu vận tải HX 228 về phía TâyIreland, các tàu hộ tống đã buộc tàu ngầmU-744 phải nổi lên mặt nước và đầu hàng sau khi bị truy đuổi trong 32 giờ. Do không thể kéo chiếc tàu ngầm trở về cảng, nó bị tàu khu trục AnhIcarus phóng ngư lôi đánh chìm. Con tàu được điều về Đội hộ tống 11 vàotháng 5 năm1944 nhằm chuẩn bị choChiến dịch Overlord. Đội được giao nhiệm vụ bảo vệ tàu bè Đồng Minh trongeo biển Manchevịnh Biscay, và cùng với các tàu khu trụcHMCSOttawaHMCSKootenay, nó đã đánh chìm tàu ngầmU-621 trong vịnh Biscay gầnLa Rochelle vào ngày18 tháng 8. Hai ngày sau, cũng các con tàu trên lại đánh chìm tàu ngầmU-984 trong vịnh Biscay về phía TâyBrestPháp. Sangtháng 11,Chaudière được gửi đếnSydney, Nova Scotia cho một đợt tái trang bị.[19]

Công việc chỉ bắt đầu vàotháng 1 năm1945 và vẫn đang tiến hành khi chiến tranh kết thúc vàotháng 5. Nó được cho là trong tình trạng vật chất tệ hại trong số các tàu khu trụcCanada khi được khảo sát, và được xem là dư thừa so với nhu cầu vào ngày13 tháng 6. Con tàu ngừng hoạt động vào ngày17 tháng 8 năm1945, và sau đó được bán cho hãng Dominion Steel Company để tháo dỡ. Công việc chỉ hoàn tất vào năm1950.[19]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^abWhitley 1988, tr. 109
  2. ^English 1993, tr. 89, 102
  3. ^MacPherson 2002, tr. 51Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFMacPherson2002 (trợ giúp)
  4. ^English 1993, tr. 141
  5. ^Friedman 2009, tr. 235
  6. ^English 1993, tr. 102–103
  7. ^Lenton 1998, tr. 160–161
  8. ^Friedman 2009, tr. 237, 244
  9. ^English 1993, tr. 107–108
  10. ^Haar 2009, tr. 65–66, 88–89, 358, 368Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFHaar2009 (trợ giúp)
  11. ^abcdEnglish 1993, tr. 108Lỗi chú thích: Thẻ<ref> không hợp lệ: tên “e8” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  12. ^English 1993, tr. 110
  13. ^Osborne 2011, tr. 26
  14. ^Rohwer 2005, tr. 61, 69–70, 72, 75
  15. ^UK Admiralty Historical Section, pp. 121–22
  16. ^abUK Admiralty Historical Section, p. 184
  17. ^Rohwer 2005, tr. 108
  18. ^Rohwer 2005, tr. 136
  19. ^abcdEnglish 1993, tr. 109
  20. ^Howse 1993, tr. 152–153
  21. ^Rohwer 2005, tr. 173–174

Thư mục

[sửa |sửa mã nguồn]


 Hải quân Hoàng gia Anh
Lớp G

Gallant  •Garland  •Gipsy  •Glowworm  •Grafton  •Grenade  •Grenville  •Greyhound  •Griffin

Lớp H

Hardy  •Hasty  •Havock  •Hereward  •Hero  •Hostile  •Hotspur  •Hunter  •Hyperion

LớpHavant

Harvester  •Havant  •Havelock  •Hesperus  •Highlander  •Hurricane  •

 Hải quân Argentina
lớpBuenos Aires
 Hải quân Brasil
lớpAcre

Acre  •Ajuricaba  •Amazonas  •Apa  •Araguary  •Araguaya

lớpJarua

Japura  •Javary  •Jaguaribe  •Jurua  •Juruena  •Jutahy

 Hải quân Hoàng gia Canada
một phần củaLớp tàu khu trục River
 Hải quân Hoàng gia Hy Lạp
Các bên sử dụng khác
 Hải quân Cộng hòa Dominica
 Hải quân Đức Quốc xã
 Hải quân Hoàng gia Hà Lan
 Hải quân Ba Lan
Lớp tàu khu trục A
Lớp tàu khu trục C
Lớp tàu khu trục D
Lớp tàu khu trục E
Lớp tàu khu trục F
Lớp tàu khu trục G
Lớp tàu khu trục H
Cổng thông tin:
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=HMS_Hero_(H99)&oldid=69386480
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp