| Hươu chuột Philippines | |
|---|---|
| Tình trạng bảo tồn | |
| Phân loại khoa học | |
| Giới(regnum) | Animalia |
| Ngành(phylum) | Chordata |
| Lớp(class) | Mammalia |
| Bộ(ordo) | Artiodactyla |
| Họ(familia) | Tragulidae |
| Chi(genus) | Tragulus |
| Loài(species) | T. nigricans |
| Danh pháp hai phần | |
| Tragulus nigricans Thomas, 1892 | |
| Danh pháp đồng nghĩa | |
| |
Cheo cheo Philippines[2] (danh pháp hai phần:Tragulus nigricans) là một loài động vậtguốc chẵn thuộcHọ Cheo cheo. Loài cheo cheo này phân bố ởPhilippines. Chúng là loàiđộng vật nhai lại và sinh hoạt vào ban đêm, đây là đặc hữu của Balabac và gần hòn đảo nhỏ hơn (Bugsuc vàRamos) về phía tây nam củaPalawan ở Philippines. Nó dã được coi là một phân loài của concheo cheo Napu (T. napu). Tuy nhiên, trong năm 2004T. nigricans được tách ra khỏiT. napu làm thành một loài riêng của mình do sự khác biệt về hình thái hộp sọ (đo sọ).[3]
Bên ngoài Philippines, chỉ có cheo cheo Philippines được nuôi nhốt ở sở thúWroclaw ởBa Lan.[4]
Cheo cheo Philipin bị đe dọa do nhiều lý do khác nhau như săn bắn và bắt giữ cho buôn bán động vật hoang dã. Việc săn bắn cũng đã gây ra một sự suy giảm trong số lượng các cá nhân còn lại. Thịt được coi là một món ăn trên các đảo và da cũng được sử dụng để làm đồ da. Mặc dù không có bất kỳ ước tính thực sự của dân số cheo cheo Philippines cho đến nay, người ta giả định chúng đang bị suy giảm số lượng. Các thợ săn địa phương đã nhận xét rằng loài này đang trở nên khó khăn hơn để tìm. Lý do lớn nhất cho sự suy giảm là quá trìnhmất nơi sống.