Theo dữ liệuSáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Hà Tĩnh có diện tích: 5.994 km², xếp thứ 27; dân số: 1.622.901 người, xếp thứ 27; GRDP 2024: 112.855.090 triệu VNĐ, xếp thứ 27; thu ngân sách 2024: 17.972.968 triệu VNĐ, xếp thứ 23; thu nhập bình quân: 51,60 triệu VNĐ/năm, xếp thứ 21.[6]
Tỉnh Hà Tĩnh được thành lập lần đầu tiên năm 1831, đời vua Minh Mạng trên cơ sở chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam). Theo đó, tỉnh Hà Tĩnh lúc thành lập với gồm 2 phủ Đức Thọ và Hà Hoa của trấn Nghệ An trước đó.
Phía đông dãyTrường Sơn với địa hình "hẹp, dốc" và nghiêng từ tây sang đông, độ dốc trung bình 1,2%, có nơi lên đến 1,8%.[10] Lãnh thổ chạy theo hướng tây bắc - đông nam và bị chia cắt bởi các sông suối củadãy Trường Sơn với những dạng địa hình chuyển tiếp, xen kẻ lẫn nhau. Sườn Đông củadãy Trường Sơn nằm ở phía tây, có độ cao trung bình 1500mét, đỉnh Rào Cọ 2.235mét, phía dưới là vùng đồi giống bát úp, tiếp nữa là dảiđồng bằng chạy ra biển có độ cao trung bình 5mét và sau cùng là dãy cát ven biển bị những cửa lạch chia cắt. Tỉnh Hà Tĩnh bị chia làm 4 loại địa hình gồm:[10]
Vùng núi nằm ở phía Đông củadãy Trường Sơn, địa hình dốc bị chia cắt, tạo nên thành những thung lũng chạy dọc theo các triền sông của hệ thốngsông Ngàn Phố,Ngàn Sâu vàRào Trổ.
Vùng trung du và bán sơn địa là vùng chuyển từ vùng núi xuống vùngđồng bằng, chạy dọc phíatây namđường Hồ Chí Minh, địa hình có dạng xen lẫn giữa các đồi trung bình và thấp với đất ruộng.
Vùng đồng bằng chạy dọc 2 bênQuốc lộ 1 theo chân núi Trà Sơn và dải ven biển với địa hình "tương đối bằng phẳng" do quá trình bồi tụ phù sa của các sông, phù sa biển trên các vỏ phong hoá Feralit hay trầm tích biển.
Vùng ven biển nằm ở phía Đông đườngQuốc lộ 1, địa hình vùng này bị tạo bởi những đụn cát, ở những vùng trũng bị lấp đầy bởi những trầm tích, đầm phá hay phù sa. Vùng này xuất hiện các dãy đồi núi sót chạy dọc ven biển và những bãi ngập mặn bị tạo ra từ những cửa sông.[10]
Hà Tĩnh nằm trong khu vựcnhiệt đớigió mùa nóng ẩm. Nó chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam, vì những cơn gió từ miền Bắc đổ vào và thời tiết ấm áp hơn của miền Nam. Nhiệt độ trung bình 24 °C-24,8 °C. Hàng năm, Hà Tĩnh có 2 mùa mưa và hè:[11]
Mùa hè: Từ tháng 4 đến tháng 10, đây là mùa nắng, khô hạn kèm theo những đợt gió phơn Tây Nam (Gió Lào) khô nóng,nhiệt độ có thể lên tới hơn 40 °C, khoảng cuối tháng 7 đến tháng 10 có những đợtbão kèm theo mưa gây ngập úng những nơi,lượng mưa lớn nhất 600 mm/ngày đêm.
Hà Tĩnh hiện có 276.003 ha rừng, gồm 199.847 ha rừng tự nhiên và 76.156 ha rừng trồng, với độ che phủ của rừng đạt 45 %. Rừng tự nhiên là kiểu rừng nhiệt đới, vùng núi có thể gặp các loại rừng lá kim á nhiệt đới. Rừng trồng phần lớn làthông nhựa. Hà Tĩnh có thảm thực vật rừng với hơn 86 họ và 500 loài cây gỗ, gồm những loại gỗ "quý" nhưlim xanh, sến, táu, đinh, gụ,pơmu... và những loài thú nhưhổ, báo, hươu đen, dê sừng thẳng, trĩ,gà lôi và các loài bò sát khác.[12]
Hà Tĩnh có bờ biển dài 137 km với những cửa sông với khoảng 267 loài cá, thuộc 90 họ, 20 loài tôm, nhuyễn thể nhưsò, mực,...[13] Về khoáng sản, tỉnh có trữ lượng khoáng sản nằm rải rác ở hầu khắp các huyện gồmthan đá, sắt, thiếc, phosphorit,than bùn,cao lanh, cát thủy tinh,thạch anh.[14]
Thời kỳ đất nước độc lập tự chủ: Nhà Ngô, Nhà Đinh, nhà Tiền Lê gọi là Hoan Châu
Thời nhà Lý: Đổi làm trại, gọi là Nghệ An Châu trại. Đây là lần đầu tiên xuất hiện danh xứ Nghệ An; năm Thiên Thành thứ 2 (năm 1030) đổi tên là Nghệ An châu. Lúc bấy giờ Diễn Châu là châu riêng, không thuộc Nghệ An Châu.
Thời nhà Trần: năm Nguyên Phong thứ 6 lại gọi là Trại Nghệ An.
Thời thuộc nhà Minh lại đổi làm 2 phủ Diễn Châu và Nghệ An.
Thờinhà Hậu Lê: Năm Quang Thuận thứ 7, 2 phủ Diễn Châu và Nghệ An sáp nhập lại, gọi Nghệ An thừa tuyên; Năm Hồng Đức thứ 1, định bản đồ Nghệ An thừa tuyên có 9 phủ, 25 huyện, 2 châu. NămHồng Đức thứ 20 (1490) vuaLê Thánh Tông đổi tên thừa tuyên Nghệ An thànhxứ Nghệ An. Phần đất thuộc tỉnh Hà Tĩnh là đất thuộc 2 phủĐức Quang (tức phủ Đức Thọ sau này) vàphủ Hà Hoa (sau còn gọi là phủ Hà Thanh). Phủ Hà Hoa gồm 2 huyện:Thạch Hà và Kỳ Hoa (tứcKỳ Anh và Hoa Xuyên sau này). Phủ Đức Quang gồm 6 huyện: Thiên Lộc (tứcCan Lộc), La Sơn (tứcĐức Thọ ngày nay),Hương Sơn,Nghi Xuân, Chân Phúc (tứcNghi Lộc Nghệ An),Thanh Chương (Nghệ An).[18]. Khoảng giữa năm Hồng Thuận (1510-1516) vua Lê Tương Dực đổi xứ Nghệ làm trấn Nghệ An.
Bản đồ tỉnh Hà Tĩnh năm 1909
Năm 1831, vuaMinh Mạng chiatrấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắcsông Lam); Hà Tĩnh (phía namsông Lam). Tỉnh Hà Tĩnh được thành lập với 2 phủ Đức Thọ và Hà Hoa củatrấn Nghệ An trước đó. NămMinh Mạng 17 (1838) lập thêm huyện Hoa Xuyên thuộc phủ Hà Hoa (Hoa Xuyên tức làCẩm Xuyên sau này). Năm Minh Mạng 21 (1840), 2 huyện (trước củavương quốc Viêng Chăn bị diệt vong bởiXiêm La và đất châu Trịnh Cao) là: Cam Cát (tứcKhamkheuth tỉnhBorikhamxay) và Cam Môn (tức vùng các huyệnHương Khê,Vũ Quang và phia Đông Bắc tỉnhKhammuane ngày nay), từng nhập vào phủ Trấn Định (tức Ngọc Ma) thuộc xứ Nghệ củaĐại Nam, đến lúc đó Minh Mạng cho nhập vào phủ Đức Thọ của tỉnh Hà Tĩnh. NămThiệu Trị thứ nhất (1841), đổi phủ Hà Hoa thành phủ Hà Thanh (do kỵ húy), đồng thời Thiệu Trị lấy cả 3 phủ Trấn Định, Trấn Tĩnh, Lạc Biên (trước thuộc Nghệ An) nhập vào tỉnh Hà Tĩnh.[19]
Ngày2 tháng 3 năm1992, thành lập thị xãHồng Lĩnh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở tách thị trấn Hồng Lĩnh; 2 xã Đức Thuận và Trung Lương; 1 phần xã Đức Thịnh thuộc huyện Đức Thọ cùng với 2 xã Đậu Liêu và Thuận Lộc thuộc huyện Can Lộc.[20]
Ngày4 tháng 8 năm2000, thành lập huyệnVũ Quang trên cơ sở tách 6 xã: Đức Lĩnh, Đức Giang, Đức Liên, Ân Phú, Đức Hương, Đức Bồng thuộc huyệnĐức Thọ, 5 xã: Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền, Hương Quang, Hương Trạch, thuộc huyệnHương Khê và xã Sơn Thọ thuộc huyệnHương Sơn.[21]
Ngày7 tháng 2 năm2007, thành lập huyệnLộc Hà trên cơ sở tách 7 xã: Ích Hậu, Hồng Lộc, Phù Lưu, Bình Lộc, Tân Lộc, An Lộc, Thịnh Lộc thuộc huyệnCan Lộc và 6 xã: Thạch Kim, Thạch Bằng, Thạch Châu, Mai Phụ, Hộ Độ, Thạch Mỹ thuộc huyệnThạch Hà.[22]
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Hà Tĩnh đạt 1.288.866 người, mật độ dân số đạt 205 người/km².[26] Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 251.968 người, chiếm 19,5% dân số toàn tỉnh,[27] dân số sống tại nông thôn đạt 1.036.898 người, chiếm 80,5%.[28] Dân số nam đạt 640.709 người,[29] trong khi đó nữ đạt 648.157 người.[30] Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0.49 ‰.[31]
Theo thống kê của Tổng cục Thống kêViệt Nam, tính đến ngày1 tháng 4 năm2009, trên địa bàn toàn tỉnh có 31 dân tộc cùng 1người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộcKinh là đông nhất với 1.224.869 người, xếp ở vị trí thứ 2 làngười Mường với 549 người,người Thái đứng ở vị trí thứ 3 với 500 người, thứ 4 làngười Lào với 433 người.[32] Tỉnh có 1 số dân tộc khác gồm: Tày, Khmer, Hoa, Nùng, H'Mông, Dao, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Sán Chay, Chăm, Cơ Ho, Xơ Đăng, Sán Dìu, Hrê, Raglay, Mnông, Thổ, Khơ Mú, Tà Ôi, Mạ, Giẻ - Triêng, La Chí, Chứt, Lô Lô, Cơ Lao, Cống.[32]
Riêng đạo Công giáo, Hà Tĩnh là 1 trong 15 tỉnh, thành phố có số lượng tín đồ đạo Công giáo đông nhất toàn quốc, có 6 giáo hạt, 58 giáo xứ, 231 họ đạo, 3 tu viện thuộc dòng Mến Thánh giá Vinh, ngoài ra còn 1 số cơ sở, nhóm nữ tu Dòng Mến Thánh giá, Dòng Bác ái. Năm 2019, toàn tỉnh có 56 linh mục và hơn 150 nữ tu ở các cơ sở dòng, nhóm nữ tu, có 149.273 giáo dân, chiếm 11,5% dân số, có 131/262 xã, phường, thị trấn có đông giáo dân và có 461 khu dân cư vùng giáo, trong đó 114 vùng giáo toàn vùng.[33]
Hà Tĩnh cóKhu kinh tế Vũng Áng được xem là khu kinh tế ven biển trọng điểm quốc gia, với sản phẩm công nghiệp chủ lực là thép (22,5 triệu tấn), nhiệt điện (7000 MW) và dịch vụ cảng nước sâu với 59 cầu cảng cho tàu từ 5 vạn đến 30 vạn tấn cập bến.[34]
Ngoài ra, Di tíchNgã ba Đồng Lộc ở huyện Can Lộc và Chỉ huy Sở Tiền phương Tổng cục Hậu cần, Bộ Tư lệnh 559, 500 ở huyện Hương Khê là hai điểm thuộc di tích quốc gia đặc biệtĐường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh.
^Thế Anh Nguyễn, Alain ForestGuerre et paix en Asie du Sud-Est Page 110 1998 "... the regional way of speaking in the southern part of Thanh Nghệ, the so-called Nghệ Tĩnh (Nghệ An and Hà Tĩnh) dialect,..."
^Jonathan D. LondonEducation in Vietnam 2011 Page 186 "A teacher from Hà Tĩnh Province acknowledged this issue, quipping that his distinctive and "heavy" Hà Tĩnh accent would be tough even for most Việt teachers, let alone students."