Hà Tây | ||
|---|---|---|
| Tỉnh | ||
Biểu trưng | ||
| Biệt danh | Quê lụa Đất trăm nghề | |
| Hành chính | ||
| Quốc gia | ||
| Vùng | Đồng bằng sông Hồng | |
| Trung tâm hành chính | thành phốHà Đông | |
| Phân chia hành chính | 2 thành phố, 12 huyện | |
| Thành lập |
| |
| Giải thể | 1 tháng 8 năm 2008 | |
| Địa lý | ||
| Tọa độ:20°58′23″B105°46′43″Đ / 20,973056°B 105,778611°Đ /20.973056; 105.778611 | ||
| ||
| Diện tích | 2.193,41 km² | |
| Dân số (2008) | ||
| Tổng cộng | 2.568.007 người | |
| Mật độ | 1.171 người/km² | |
| Dân tộc | Kinh,Mường,Dao | |
| Khác | ||
| Biển số xe | 33 | |
Hà Tây là mộttỉnh cũ thuộc vùngĐồng bằng sông Hồng,Đông Bắc Bộ,Việt Nam. Tồn tại trong hai giai đoạn: Ngày21 tháng 4 năm1965 đến ngày27 tháng 12 năm1975, ngày12 tháng 8 năm1991 đến ngày1 tháng 8 năm2008.
Tỉnh Hà Tây có vị trí địa lý:
Tỉnh Hà Tây gồm 2 thành phố: Hà Đông (tỉnh lỵ), Sơn Tây và 12 huyện: Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa.
Ngày21 tháng 4 năm1965, hai tỉnhHà Đông vàSơn Tây hợp nhất thành tỉnh Hà Tây.[1] Khi hợp nhất, tỉnh Hà Tây gồm 2 thị xã:Hà Đông (tỉnh lỵ),Sơn Tây và 14 huyện: Bất Bạt,Chương Mỹ,Đan Phượng,Hoài Đức,Mỹ Đức,Phú Xuyên,Phúc Thọ, Quảng Oai,Quốc Oai,Thạch Thất,Thanh Oai,Thường Tín, Tùng Thiện,Ứng Hòa.
Ngày26 tháng 7 năm1968, hợp nhất 3 huyện Bất Bạt, Quảng Oai và Tùng Thiện thành huyệnBa Vì.[2]
Ngày27 tháng 12 năm1975, tỉnh Hà Tây hợp nhất với tỉnhHòa Bình thành tỉnhHà Sơn Bình. Ngày27 tháng 12 năm1978, thị xã Sơn Tây và 5 huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức sáp nhập vào thành phốHà Nội.[3]
Ngày12 tháng 8 năm1991, tỉnh Hà Tây được tái lập. Đồng thời, thị xã Sơn Tây và 5 huyện: Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức thuộc thành phố Hà Nội được chuyển về tỉnh Hà Tây.[4]
Ngày27 tháng 12 năm2006, thành lập thành phố Hà Đông trên cơ sở thị xã Hà Đông.[5] Ngày2 tháng 8 năm2007, thành lập thành phố Sơn Tây trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sơn Tây.[6]
Ngày1 tháng 8 năm2008, tỉnh Hà Tây sáp nhập vào thành phốHà Nội.[7] Từ đó, tỉnh Hà Tây không còn tồn tại. Địa giới hành chính của tỉnh ngày nay tương ứng với phía Tây và phía Nam thành phốHà Nội.
Từ ngày8 tháng 5 năm2009, thành phốHà Đông trở thành quận nội của thành phố Hà Nội và thị xãSơn Tây chuyển thành thị xã trực thuộc thành phố.
Bài viết nàycần thêmchú thích nguồn gốc đểkiểm chứng thông tin. Mời bạn giúphoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tớicác nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này) |
Tổng sản phẩm (GDP) trong tỉnh năm2001 ước đạt 14.900 tỷ đồng. Theo tài liệu[8] thì năm 2001 dân số toàn tỉnh Hà Tây là 2.432.000 người, do đó GDP/người là 434 USD, tương đương với 6.157.300 VNĐ
Cơ cấu kinh tế:
Hà Tây có trên 200làng nghề với những sản phẩm đặc sắc và được nhiều người ưa chuộng nhưpháoBình Đà,lụa Vạn Phúc,sơn mài - Duyên Thái, tiện gỗ - Nhị Khê,thêu - Quất Động, Nón Chuông, Quạt Vác,khảm trai Chuyên Mỹ, hàngmâytre Phú Vinh, đồ mộcChàng Sơn, Sơn Đồng, may Trạch Xá, đàn Đào Xá, mộc Đại Nghiệp, tơ lưới Hà Thao, tò he Xuân La,...
Bài viết nàycần thêmchú thích nguồn gốc đểkiểm chứng thông tin. Mời bạn giúphoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tớicác nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này) |
Bài hátHà Tây quê lụa củaNhật Lai ra đời khiKhông quân Hoa Kỳ tăng cường đánh phámiền Bắc Việt Nam với ca từ đẹp, giai điệu mượt mà đã trở nên nổi tiếng.

Hà Tây là tỉnh giàu tiềm năng du lịch. Với địa hình giao thoa giữa miền núi và đồng bằng, Hà Tây có nhiều hồ, suối và hang động. Ngoài ra, số lượng di tích lịch sử được công nhận ở Hà Tây chỉ đứng sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.[cần dẫn nguồn]
Hà Tây là tỉnh có 2 trong số 21khu du lịch quốc gia là:
Các địa điểm du lịch nổi tiếng khác gồm:
Dù đã sáp nhập vào thành phố Hà Nội từ năm 2008 nhưng vẫn còn đó ký ức về các đặc sản nổi tiếng xứ Đoài. Có thể kể đến như: nem Phùng, miến Cự Đà, giò chả Ước Lễ, bánh cuốn Vân Đình, kẹo lạc Đường Lâm, rau sắng Chùa Hương, cà dầm tương Tam Hiệp, bưởi thồ Bạch Hạ, sữa Ba Vì, tương Mông Phụ, kẹo lạc- kẹo dồi Cổ Hoàng, rượu Ngự Câu, khoai tây Thường Tín, miến rong Dương Liễu, gạo Khu Cháy, nhãn muộn Đại Thành (Quốc Oai Hà Tây), chè lam Thạch Xá, trứng Liên Châu, kẹo lạc Tháp Thượng, bánh giò, bún tươi Bích Hòa, rượu nếp Bá Giang, chè Long Phú, thịt chó Cao Xá, vịt nướng Vân Đình, bột sắn Minh Hồng, bánh tro Đắc Sở, rượu nếp Chi Nê, cơm lam Ba Vì, thịt chuột Canh Nậu, bánh nếp, mơ Hương Sơn, đậu phụ Trúng Đích, bánh tẻ Phúc Lâm, miến rong làng So, chuối Vân Nam, bánh giầy Quán Gánh, mạch nha Hoài Đức, gạo bồ nâu Thanh Văn, tò he Xuân La, miến rong Minh Khai, củ mài Hương Sơn, giò chả Hoàng Trung, rượu Trại Chiêu, giá đỗ Trung Châu, gà mía Sơn Tây, rau sắn nấu cá trê Thạch Thất, tương nếp Cự Đà, bún cá rô đồng, cau sấy Hạc Sơn, bánh đa nem Ngự Câu, cá mòi sông Hồng, bún tươi làng Bặt, men rượu Tân Độ, cháo se làng Hạ, bột sắn Hoài Đức, tiểu hổ Cự Đà, bánh đúc Kim Bài, chè Ba Trại, bánh khúc, bánh khoai, chè lam Đường Lâm, bánh cuốn Thanh Lương, nem Phượng, rau muống Linh Chiểu, bánh bác Giang Xá, bánh mứt kẹo La Phù, giò chả Thượng Hội, vịt cỏ Vân Đình, cải mào gà Hoài Đức, nem thính Cao Bộ, thịt quay đòn Sơn Tây, bún khô Minh Khai, chè củ mài Chùa Hương, cam Canh, cháo vịt Vân Đình, rượu nếp làng Mai, vật vờ sông Hồng, gà đồi Ba Vì, bún hến Phú Xuyên, bánh gai làng Giá, bánh tẻ Phú Nhi, chè kho Đại Đồng.
TrongTứ chiếng chèo đồng bằng sông Hồng thì Hà Tây là trung tâm của chiếng chèo Đoài (vùng đất gồm phần lớn tỉnh Hà Tây cũ, các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và một phần các tỉnh Tuyên Quang, Hòa Bình). Hà Tây là cái nôi chèo lớn của Việt Nam với những tên tuổi lớn của sân khấu chèo như NSNDTào Mạt, NSND Chu Văn Thức, NSNDDiễm Lộc, NSND Khắc Tư, NSND Đoàn Thanh Bình, NSƯT Văn Chương, NSNDThu Huyền,...
Nghệ thuật chèo được hình thành từ thế kỷ 10 tạiKinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) dưới thờinhà Đinh. Ưu bàPhạm Thị Trân đã truyền dạy nghệ thuật chèo cho cung nữ và quân lính. Sau đó chèo phát triển rộng ra lãnh thổĐại Cồ Việt (vùng châu thổ Bắc Bộ và các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh trở ra). Vàothế kỷ 15, vuaLê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình.Chèo trở về với nông dân, gắn liền với sinh hoạt đời sống, hội hè của người Việt.
Nghệ thuật chèoĐồng bằng sông Hồng trở thành cái nôi chèo với Tứ chiếng chèo Đông, Đoài, Nam, Bắc. Chiếng Chèo là những phường Chèo hoạt động trong một vùng văn hóa, địa lý nhất định. Phong trào hát chèo xưa phân vùng chèochâu thổ sông Hồng thành 4 chiếng chèo Đông, chèo Đoài, chèo Nam, chèo Bắc với kinh đô Thăng Long - Hà Nội ở vị trí trung tâm. Mỗi chiếng có những "ngón nghề" riêng, kỹ thuật riêng, khó lưu truyền và phát triển ra đến bên ngoài do sự khác nhau trong phong cách nghệ thuật dựa trên cơ sở dân ca, dân vũ và văn hóa địa phương, chỉ người trong chiếng mới diễn được với nhau.
Hiện tại Hà Tây đã sáp nhập vào Hà Nội, nơi đây vẫn còn những vùng chèo tiêu biểu nhưThạch Thất,Quốc Oai,Ba Vì,Sơn Tây,Thường Tín,...