Ký hiệu của thầnLa MãMars (thần chiến tranh tương đươngAres) thường được dùng để ký hiệu giống đực. Nó cũng là ký hiệu đại diện choSao Hỏa và nguyên tốsắt.
Không phải tất cả các loài sinh vật đều có chung các yếu tố quy định giới tính. Ở hầu hếtđộng vật, kể cảcon người, việc xác định giới tính nằm ởdi truyền. Tuy vậy ở một số loài như Cymothoa exigua thay đổi giới tính dựa trên số lượng cá thể cái hiện có xung quanh chúng.Male (ở đây là "Nam") cũng có thể được dùng để chỉ "giới" (gender)[7].
Sự xuất hiện của hai giới tính được xem như việc chọn lọc độc lập thông qua sựtiến hóa của các giống nòi khác nhau (xemTiến hóa hội tụ).[1][8] Hình thức lặp lại này chính là sựsinh sản hữu tính ở những loài đẳng giao với hai hoặc nhiều hơn các loại giới với hình dạng và hành vi tương đồng (nhưng khác nhau ở mức độphân tử), ở những loài bất đẳng giao với các giao tử khác nhau của con đực và cái, và ở những loài noãn giao với giao tử của con cái có kích thước lớn hơn giao tử của con đực rất nhiều và không có khả năng di chuyển. Có một luận điểm thuyết phục cho rằng hình thức này được chọn lọc qua quá trình tiến hóa bởi sự hạn chế thể chất trong cơ chế kết hợp giữa hai giao tử trongsinh sản hữu tính.[9]
Theo đó,giới tính được xác định ở từng loài nhờ loạigiao tử được sản sinh (ví dụ nhưtinh trùng vàtrứng) và những sự khác nhau giữa giống đực và giống cái trong cùng một giống không phải luôn có thể tiên đoán được.[1][10][11]
Dị hình giới tính ở giống đực/cái giữa các sinh vật hoặc cơ chế sinh sản của những giới tính khác nhau không giới hạn ở động vật; giao tử đực được hình thành trong nấm chytrids, tảo silic vàthực vật trên cạn. Ở thực vật trên cạn, giống đực và giống cái không những chỉ định sự hình thành giao tử đực và cái ở sinh vật mà còn chỉ định cấu trúc củathể bào tử giúp cả cây đực và cây cái phát triển.
Một biểu tượng phổ biến được dùng để đại diện cho giới tính nam là biểu tượng Sao Hoả (Mars symbol) ♂, một vòng tròn với một mũi tên chỉ về hướng đông bắc. Điểm mã Unicode là:
Biểu tượng giống với biểu tượng hành tinh củaSao Hỏa. Nó được sử dụng lần đầu bởiCarl Linnaeus vào năm 1751 để đại diện cho giới tính. Biểu tượng này đôi khi được xem như là hình ảnh đại diện đã được cách điệu cho chiếc khiên và ngọn giáo của vịthần La Mã Mars. Tuy nhiên, theo Stearn, nguồn gốc này là "hư cấu" và tất cả các bằng chứng lịch sử đều ủng hộ "kết luận của học giả cổ đại người Pháp Claude de Saumaise (Salmasius, 1588-1683)" rằng nó có nguồn gốc từ θρ, viết tắt tên của Sao Hỏa trong tiếng Hy Lạp - Thouros.[12]
Bức ảnh so sánh giữa một người nam giới và một ngườinữ giới trưởng thành. Chú thích rằng cả hai người mẫu đều đã cạo một phần lông trên cơ thể; ví dụ: vùng mu được cạo sạch sẽ.
Giới tính của từng sinh vật cụ thể có lẽ được xác định bởi nhiều nhân tố. Đó có thể là sự xác định về mặt di truyền hoặc sự xác định thông qua môi trường, hay thay đổi một cách tự nhiên trong suốt cuộc đời của sinh vật đó[1][8][16]. Mặc dù hầu hết các loài chỉ có hai giới tính (nam/đực hoặc nữ/cái), sinh vật lưỡng tính (ví dụ: giun) có cả hệ sinh dục đực và cái[17].
Hầu hết động vật có vú, bao gồm con người, thường được xác định về mặt di truyền thông quahệ thống xác định giới tính XY, ở đó con đực có cặpnhiễm sắc thể XY (trái ngược với cặpnhiễm sắc thể XX). Ngoài ra cũng có trường hợp con đực mang cặpnhiễm sắc thể XX và các kiểu nhân đồ khác ở nhiều loài, bao gồm cả con người. Trong quá trình sinh sản, con đực có thể xuất ra mộttinh trùng X hoặctinh trùng Y, trong khi con cái chỉ có thể cho đi một trứng X. Một tinh trùng Y và một trứng X tạo thành một con đực (bé trai), trong khi đó một tinh trùng X kết hợp với một trứng X tạo thành một con cái (bé gái).[18]
Một phần củanhiễm sắc thể Y chịu trách nhiệm cho tính nam - là vùng xác định giới tính củanhiễm sắc thể Y (SRY)[19]. SRY kích hoạt Sox9 để tạo thành các vòng chuyển tiếp với FGF9 và PGD2 trong tuyến sinh dục, cho phép mức độ của các gen này ở mức đủ cao để giúp con đực phát triển[20]; ví dụ, Fgf9 chịu trách nhiệm cho sự phát triển của thừng tinh và sự nhân lên của tế bào Sertoli, cả hai đều rất quan trọng đối với sự phát triển của sinh dục đực[21].
Hệ thống xác định giới tính ZW, ở đó con đực có cặp nhiễm sắc thể ZZ (trái ngược với cặp nhiễm sắc thể ZW) có thể được tìm thấy ở chim và một số côn trùng (chủ yếu làbướm và bướm đêm) và các sinh vật khác. Các loài thuộcBộ cánh màng, nhưkiến vàong, thường được xác định bởi đơn-lưỡng bội (haplodiploidy), ở đó hầu hết con đực là đơn bội và con cái cùng với một số con đực vô sinh là lưỡng bội.
Ở một số loài bò sát, như làCá sấu mõm ngắn, giới tính được xác định bởi nhiệt độ ấp trứng. Các loài khác, ví dụ ở một vài consên, giới tính thay đổi: con trưởng thành bắt đầu chuyển sang con đực, sau đó trở thành con cái[22].
Ở một số loàiđộng vật chân đốt, giới tính được xác định bởi sự lây nhiễm. Vi khuẩn thuộc chi Wolbachia thay đổi tính dục của chúng; một vài loài bao gồm tất cả các cá thể ZZ, giới tính của chúng được xác định bởi sự hiện diện của Wolbachia.[23]
Ở những loài có hai giới tính, con đực có lẽ sẽ khác con cái ở những điểm khác ngoài việc sản xuấttinh trùng.
Ở nhiều loàicôn trùng vàcá, con đực sẽ nhỏ hơn con cái.
Ởthực vật có hạt - loài biểu hiện sự luân phiên giữa các thế hệ, các bộ phận cái và đực đều nằm trong cơ quan sinh dụcthể bào tử của một sinh vật duy nhất.
^Lehtonen, Jussi (2017), "Gamete Size", in Shackelford, Todd K.; Weekes-Shackelford, Viviana A. (eds.).Encyclopedia of Evolutionary Psychological Science. Springer International Publishing. tr. 1-4.doi:10.1007/978-3-319-16999-6_3063-1.ISBN978-3-319-16999-6.{{Chú thích sách}}:|last= có tên chung (trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
^Lehtonen, Jussi (2017)."Gamete Size", in Shackelford, Todd K.; Weekes-Shackelford, Viviana A. (eds.). Encyclopedia of Evolutionary Psychological Science, Cham: Springer International Publishing. tr. 1–4.doi:10.1007/978-3-319-16999-6_3063-1.ISBN978-3-319-16999-6.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
^Laura Palazzani; Victoria Bailes; Marina Fella (2012).Gender in Philosophy and Law. SpringerBriefs in law. Dordrecht : Springer. p. v. ISBN9789400749917.'gender' means human gender, male/female gender
^J. Richard Johnson (1962).How to Build Electronic Equipment. New York: Rider. p. 167.To minimize confusion, the connector portions with projecting prongs are referred to as the 'male' portion, and the sockets as the 'female' portion.
^Richard Ferncase (2013).Film and Video Lighting Terms and Concepts. Hoboken Taylor and Francis. p. 96.ISBN9780240801575.female[:] Refers to a socket type connector, which must receive a male connector
^Reference, Genetics Home."SRY gene".Genetics Home Reference. Retrieved 2020-07-22.
^Kosuke; Malki, Safia; Marzi, Laetitia; Cohen-Solal, Ann; Georg, Ina; Klattig, Jürgen; Englert, Christoph; Kim, Yuna; Capel, Blanche; Eguchi, Naomi; Urade, Yoshihiro; Boizet-Bonhoure, Brigitte; Poulat, Francis (2009).The PGD2 pathway, independently of FGF9, amplifies SOX9 activity in Sertoli cells during male sexual differentiation. 136 (11): 1813–1821: Development.doi:10.1242/dev.032631.PMC4075598.PMID19429785.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết) Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
^Cahill, Abigail E.; Juman, Alia Rehana; Pellman-Isaacs, Aaron; Bruno, William T. (December 2015).Conspecifics Mediate Sex Change in a Protandrous Gastropod Crepidula fornicata. 229 (3): 276–281: The Biological Bulletin.doi:10.1086/bblv229n3p276.ISSN0006-3185.PMID26695826.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết) Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)