Thông tin cho Đan Mạch bao gồm Quần đảo Faroe và Greenland. Tiền tệ, được in với kiều dáng riêng của Faroe, được phát hành tương đương vớiKrone Đan Mạch, sử dụng cùng tính năng bảo an và sử dụng cùng kích thước và tiêu chuẩn với đồng xu và giấy bạc của Đan Mạch.krónur (số ítkróna) Faroe sử dụng mãISO 4217 của Đan Mạch "DKK".
Bài viết này có một danh sách các nguồn tham khảo, nhưngvẫn chưa đáp ứng khả năng kiểm chứng được bởi thân bài vẫn còn thiếu cácchú thích trong hàng. Hãy giúp cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung các chú thích nguồn cho các nội dung tương ứng. (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)
Quần đảo Faroe là lãnh thổ được chính thức tách ra từNa Uy từ 1814, sauHòa ước Kiel ký ngày 14 tháng 1 năm 1814 và trực thuộcĐan Mạch. Quần đảo Faroe có 2 đại biểu trong đoàn đại biểu Đan Mạch tạiHội đồng Bắc Âu (Nordisk Råd).
Từ khoảng năm 625, các tu sĩCông giáo ngườiIreland đã tới quần đảo này. Họ mang theo cừu đến nuôi trên các cánh đồng cỏ và họ sống như các người ẩn cư. Có lẽ cũng chính họ đã đặt tên cho quần đảo.
Dường như các tu sĩ này đã dời tớiIceland trước khi các ngườiViking Na Uy từquần đảo Orkney,Quần đảo Shetland vàScotland tới định cư vào khoảng cuối thế kỷ thứ 9. Từ năm 1035 tới 1814, trên danh nghĩa Quần đảo Faroe là thuộc địa của Vương quốc Na Uy. Trên thực tế thì từ sau khi ký kếtLiên minh Kalmar (năm 1397) thì Đan Mạch đã dần dần thay thế Na Uy, nắm quyền kiểm soát quần đảo này.
TheoHòa ước Kiel ký ngày 14 tháng 1 năm 1814, Đan Mạch phải nhường quyền cai trị Na Uy cho Vương quốcThụy Điển, nhưng vẫn giữ các thuộc địa Iceland, đảo Greenland và Quần đảo Faroe, mặc dù vuaCarl XVI Gustaf của Thụy Điển phản đối.
Năm 1816, chính phủ Đan Mạch bãi bỏ nghị viện (Løgting) và chứcLagmand (thủ tướng) của quần đảo này, đồng thời sáp nhập Faroe thành mộtamt (tương đương tỉnh hạt) của Đan Mạch.
Sau cuộc họp toàn dân nhằm thức tỉnh tình tự dân tộc vào chiều ngày lễGiáng sinh năm 1888, người Faroe đã muốn đòi độc lập. Tới năm 1906, họ thành lập đảngSjálvstýrisflokkurin (Đảng Độc lập) để làm đối trọng với đảng thân Đan MạchSambandsflokkurin (Đảng Hợp tác) là đảng muốn duy trì tình trạng đất nước hiện hành. Điểm xung khắc giữa hai đảng là việc dùngtiếng Faroe để dạy học trong các trường. Theo yêu cầu của đảng Sambandsflokkurin, chính phủ Đan Mạch đưa ra điều luật số 7 năm 1912, quyết địnhtiếng Đan Mạch được dùng để dạy học. Điều luật này mãi tới năm 1938 mới bị bãi bỏ.
Sau chiến tranh, người Faroe không muốn tiếp tục là mộtamt của Đan Mạch và đã cử một phái đoàn tới Đan Mạch đàm phán. Hai bên không nhất trí được với nhau nên đồng ý tổ chức một cuộctrưng cầu ý dân vào năm 1946. Kết quả là đa số đồng ý độc lập, nhưng vua Đan Mạch đã dùng quyền phủ quyết để bác bỏ.
Sau nhiều cuộc thương lượng mới, tới năm 1948 Quốc hội Đan Mạch đã biểu quyết Luật tự trị cho Quần đảo Faroe. Từ năm này, Faroe từng bước được tự trị, ngoại trừ 2 lãnh vựcquốc phòng vàđối ngoại. Tới ngày 29 tháng 3 năm 2005, với tuyên bố chung tạiFámjin (Faroe) thì Faroe sẽ được tăng quyền về quốc phòng và đối ngoại.
Beinisvørð, Bờ biển phía Tây Suðuroy - Quần đảo Faroe
Quần đảo Faroe nằm ở phía bắcĐại Tây Dương, tại vị trí 62 độ vĩ bắc và 7 độ kinh tây, gồm có18 đảo và11 đảo hoang nhỏ, nguyên là các đảo núi lửa đã ngưng hoạt động từ khoảng 60 triệu năm trước. Từ mũiEnniberg cực bắc tớiSumbiarsteinur cực nam, dài 118 km. Tổngchiều dài bờ biển của quần đảo là 1.117 km. Đặc biệt bờ biển phía tây có các núi đá cao, vách thẳng đứng về phía biển. Độ cao trung bình của các núi đá là 300 m so với mặt nước biển, núi cao nhất làSlættaratindur, cao 882 m.
Hiện nay - ngoại trừ đảoLítla Dímun - 17 đảo còn lại đều có người cư ngụ.
Khoảng cách từ quần đảo Faroe tới đảo hoangSula Sgeir của Scotland là 240 km, tới quần đảo Shetland là 280 km, tới Scotland là 310 km, tới Iceland là 450 km, tới Na Uy là 675 km và tới Ireland là 678 km.
Trước kia, Quần đảo Faroe là thuộc địa của Vương quốc Na Uy rồi Vương quốc Đan Mạch. Từ năm 1948, Faroe được tự trị (ngoại trừ lĩnh vực quốc phòng và đối ngoại). Hiện nay, Faroe có một nghị viện (Løgting) và một chính phủ tự trị. Đan Mạch chỉ cử một viên chức đại diện tại quần đảo (gọi làrigsombudsmand) (từ năm 2007 là Søren Christensen), viên chức này tham dự các cuộc họp quan trọng của nghị viện, nhưng không có quyền biểu quyết.
Cùng với nghị viện củaĐảo Man (gọi làTynwald) và nghị viện củaIceland (gọi làAlting), nghị viện của quần đảo Faroe là một trong ba nghị viện lâu đời nhất thế giới, chúng đã tồn tại từ một thiên niên kỷ.
Nghị viện của Faroe gồm tối thiểu là 27 và tối đa là 32 nghị viên, được bầu với nhiệm kỳ 4 năm theo thể thứcphổ thông đầu phiếu.
Ngoài ra, Faroe cũng được bầu 2 đại biểu vào Quốc hội Đan Mạch (Folketinget) và 2 đại biểu trong đoàn đại biểu Đan Mạch tạiHội đồng Bắc Âu (Nordisk Råd).
Về quản lý hành chính, Faroe được chia thành 6sýsla (tương đương quận hạt hoặc tổng) và 36kommune (tương đương thị xã hoặc xã nông thôn).
Theo một số sử gia, thì dường như các cư dân đầu tiên trên quần đảo này là các tu sĩ Công giáo người Ireland. Sau đó - từ khoảng cuối thế kỷ thứ 9 - các người Viking Na Uy từ các thuộc địa của họ đã tới định cư dần dần hầu khắp các đảo, lên tới khoảng 4.000 người.
Khoảng năm 1349-1350, dân số sụt giảm một nửa, dobệnh dịch Đen (dịch hạch xoài, lan tràn khắp châu Âu từ 1347-1350, giết hại nhiều triệu người). Sau đó các di dân từ Quần đảo Shetland, Quần đảo Orkney và Na Uy tới tiếp, làm dân số tăng lên ổn định ở mức 5.000 người.
Sau khi áp dụng việc đánh bắt cá ngoài khơi thì cư dân không còn phụ thuộc vào nghề nông và nghề đánh cá cận duyên, hơn nữa tình trạng sức khỏe cũng được cải thiện nhiều, nên từ cuối thế kỷ 18 tới nay, dân số đã tăng lên gấp 10 lần, xấp xỉ 50.000 người.
Cuối thập niên 1980, Faroe bị một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, gây ra nạn thất nghiệp, do đó có khoảng 10% dân số đã di cư ra các nước khác, phần lớn tới Đan Mạch. Tới năm 1995, Faroe đã vượt qua cơn khủng hoảng này và nhiều người di cư đã quay về.
Tính tới ngày 1 tháng 1 năm 2006, Faroe có 48.219 cư dân, trong đó khoảng 17.000 người cư ngụ tại thủ phủTórshavn.
Phần lớn cư dân là người có nguồn gốc Bắc Âu vàCelt. Việc nghiên cứuDNA mới nhất cho thấy là cácgien nam giới 87% gốcScandinavia, gien nữ giới 84% là Celt (Ireland và Scotland). Cũng có một số ngoại kiều thuộc 77 quốc tịch khác nhau sinh sống tại đây, trong đó nhóm người Iceland là đông nhất, sau đó là các người Na Uy vàBa Lan, mỗi nước khoảng 0,2%.
Đa số dân cư sống ở vùng bờ biển phía đông, bên các vịnh và các vịnh hẹp, ngoại trừ tạiFámjin vàSumba ở phía tây, do được các đảo nhỏ che chở.
Theo số liệu không chính thức thì có khoảng 15.000 - 20.000 người Faroe cư ngụ tại Đan Mạch và khoảng 5.000 người sống tại Iceland.
Nghề đánh bắt cá là nghề chính của cư dân trên quần đảo từ giữa thế kỷ 19. Trước đó 68% dân số làm nghề nông. Ngoài việc đánh bắt cá, người Faroe cũng săn giết các cá voi đầu tròn có răng, hải cẩu và chim.
Ngày nay Faroe có nghề đánh cá hiện đại với một đội tàu lớn đánh bắt cá bằng lưới rê, các tàu đánh cá cận duyên, các xưởng chế biến cá. Một số dân làm dịch vụ, chế biến hàng thực phẩm v.v.
Faroe cũng có một nhà máy lớn chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa, 2 nhà máy sản xuất rượu bia, một nhà máy sản xuất nước đá.
Năm 2006, tỷ lệ người thất nghiệp là 3%, một trong các tỷ lệ thấp nhấtchâu Âu.
Quốc khánh của Faroe gọi là ngàyÓlavsøka gồm 2 ngày 28 và 29 tháng 7 (ngày Thánh Olav, vua Na Uy, chết 29 tháng 7 năm 1030). (Ólavsøka là tiếng Faroe thay chotiếng LatinVigilia sancti Olavi và có nghĩa "Đêm canh thức trước lễ thánh Olav"). Trong ngày này, nghị viện đã tồn tại hàng ngàn năm bắt đầu khai mạc khóa họp hàng năm theo đúng truyền thống. Toàn thể nghị viên, thành viên trong nội các tự trị, giám mục và mọi mục sư cùng các viên chức cấp cao tham dự một cuộc rước long trọng từ trụ sở nghị viện tớinhà thờ chính tòaTórshavn để dự lễ Thánh Olav, sau đó trở lại nghị viện và chủ tịch nghị viện đọc diễn văn khai mạc khóa họp. Dân chúng từ khắp các đảo đều kéo về thủ đô Tórshavn tham dự lễ hội này. Sự kiện này cũng phản ánh quan hệ từ xưa giữa nghị viện vàgiáo hội.
Trong ngày 28 tháng 7 có cuộc đua thuyền của người Faroe tại thủ phủ Tórshavn. Đây là cuộc đua thuyền cuối cùng và lớn nhất trong năm để tranh chức vô địch. Trong dịp này cũng có một cuộc triển lãm lớn tạiNhà văn hóa Bắc Âu của Faroe và một cuộc hòa nhạc lớn.
Người Faroe có điệu múa dân tộc theo dây chuyền và các bài dân ca lâu đời.
Ngôi làng kỳ cựuKirkjubøur ở cực nam của đảoStreymoy đã được cơ quanUNESCO liệt vào danh sáchdi sản văn hóa thế giới. Trong suốt thờitrung cổ, làng này là nơi có trụ sở củagiáo phận công giáo từ thế kỷ 11, do đó là trung tâm tinh thần và văn hóa của quần đảo. Hiện nay còn ngôi nhà thờ cổ mang tên Thánh Olav (từ thế kỷ 12) và di tích nhà thờ chính tòa Thánh Magnus (từ thế kỷ 14). Từ năm 1557, sau khi cải sang đạoTin Lành thì khu trụ sở giáo phận Công giáo cũ biến thành khunông trại nhà vua (roystovan), nơi gia tộc nông dânPatursson vẫn còn sinh sống tới ngày nay trải qua 17 thế hệ. Nông trại này lớn nhất và gia tộc Patursson cũng nổi tiếng nhất Faroe. Nhiều nhân vật chính trị, văn hóa của Faroe đã xuất thân từ gia tộc này.
Ngôn ngữ chính thức làtiếng Faroe, có nguốn gốc từnhóm ngôn ngữ Bắc German cổ, cùng nhóm ngôn ngữ vớitiếng Na Uy vàtiếng Iceland.Tiếng Đan Mạch là ngôn ngữ chính thức thứ hai, được dạy trong các trường từ lớp 3 trở lên. Tuy nhiên tiếng Đan Mạch được người Faroe nói với giọng địa phương gọi làGøtudanskt, na ná như tiếng Na Uy. Từ lớp 2 trở lên thì học sinh được họctiếng Anh như một ngoại ngữ.
Từ khoảng năm 625, dường như các tu sĩ Công giáo người Ireland là những cư dân đầu tiên trên quần đảo. Các huyền thoại nói rằng họ bị các cư dân phương bắc theo tà giáo đuổi đi. Tới năm 999, các cư dân này lại ít nhiều tự nguyện theo đạo Công giáo do tù trưởngViking Na UySigmundur Brestisson truyền giáo. Cho tới thời Cải cách theo đạoTin Lành (1540), Faroe trực thuộc tổng giáo phậnTrondheim (Na Uy).
Ngày nay hầu như mọi cư dân Faroe đều theoKitô giáo. 84% theo giáo hội Tin Lành Luther (quốc giáo), khoảng 7% thuộc giáo pháiMoravia, 5% thuộc các giáo phái Kitô khác nhưhội truyền giáo Thánh Linh vàCơ đốc Phục lâm (Adventist), giáo phái này cũng mở một trường tu thục lớn ở Tórshavn. Giáo họ Công giáo tại Tórshavn có 70 người, họ cũng mở một nhà trẻ mẫu giáo lớn, do các nữ tu dòng thánh Phanxicô điều hành. Cũng có một nhóm nhỏ theo đạoBahai.
Vào ngày quốc khánh Olavsøka 29 tháng 7 năm 2007, chính phủ tự trị đã lãnh trách nhiệm quản lý giáo hội quốc giáo, được tách ra từ giáo hội quốc giáo Đan Mạch.
Thái độ của cácKitô hữu bảo thủ đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị. Faroe cho phụ nữ quyền tự do phá thai và các ngườiđồng tính luyến ái cũng được tự do kết hôn.
Do vị trí cô lập, Quần đảo Faroe không có nhiều loại động vật thông thường, vd. cóc nhái,cá nước ngọt, nhiều loại côn trùng như muỗi, ong v.v. Loài côn trùng thông thường là bướm đêmHepialus humuli. Loài nhiều nhất làhải cẩu xám (tên khoa học:Halicboerus grypus), chúng đẻ con khắp các hang động. Loài chim gồm chủ yếu là các chim ấp trứng và các chim biển. Chim biểu tượng của Faroe là chimTjaldur (chim ác là bãi biển, tên khoa học:Haematopus ostralegus). Động vật biểu tượng là cừu.
Cáccá voi đầu tròn (Globicephala melas) xuất hiện từng đàn gần bờ và bơi vào các vịnh. Các cư dân thường giết chúng dùng làm thực phẩm.
Loại ốcPolycera faeroensis là một trong số rất ít động vật mang tên của quần đảo.
Các động vật thông thường hiện nay là do các cư dân mang tới từ thế kỷ thứ 7. Các chuột nhắt, chuột cống theo các tàu biển tới từ thế kỷ 16.Thỏ trắng miền núi (Lepus timidus) được đưa từ Na Uy tới trong thế kỷ 19.Ong vò vẽ là loài mới nhất, dường như theo các tàu tới khoảng năm 1998. Động vật khách thông thường vào mùa thu làbọ cánh da (Dermaptera).
CâyBạch chỉ là 1 cây tiêu biểu ở mọi nơi cư ngụ của ngườiviking.Hoa vị kim đất ẩm (Caltha palustris, tếng Faroe:Sólja) là cây hoa biểu tượng của người FaroeCây Xuyên thạch (Alchemilla faeroënsis) trên 1 tem của Faroe từ năm 1980
Ngày nay người ta đã đưa vào trồng khoảng 400 loại cây có mạch (Tracheobionta), khoảng 400 loại rêu (Bryophyta), khoảng 250 loại địa y (Lichen) và các loại cây lá kim.