
Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên,[1] còn gọi là vùngTây Nguyên – Nam Trung Bộ[2] là một phân vùng địa phương của Miền Trung Việt Nam.
Tên "duyên hải" thể hiện đặc điểm là vùng ven biển của phần Nam Trung Bộ. Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên cùng vớiBắc Trung Bộ hợp thànhmiền Trung Việt Nam.
Trước đây, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên được coi là một vùng địa phương riêng biệt. Sau sự kiệnsáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, hầu hết các tỉnh cũ của Duyên hải Nam Trung Bộ vàTây Nguyên được sáp nhập lại với nhau, tạo nên một vùng Nam Trung Bộ thống nhất.
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên có đông giáp vớiBiển Đông; phía bắc giáp vớiBắc Trung Bộ; phía tây giáp vớiLào và Campuchia, thuận lợi giao lưu phát triển kinh tế và hình thành nền kinh tế mở; phía nam tiếp giáp với vùngĐông Nam Bộ, thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Đông Nam Bộ trong quá trình phát triển.
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên có vị trí địa lý kinh tế rất thuận lợi, nằm trên các trục giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường biển, gần khu tam giác kinh tế trọng điểm vùngĐông Nam Bộ; cửa ngõ củaĐường Xuyên Á ra biển nối với đường hàng hải quốc tế.
Trước năm 2025, Duyên hải Nam Trung Bộ là một vùng địa phương riêng biệt với Tây Nguyên, với các tỉnh thành riêng là:Đà Nẵng,Quảng Nam,Quảng Ngãi,Bình Định,Phú Yên,Khánh Hòa,Ninh Thuận,Bình Thuận.
Sau khi sáp nhập, các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên lại với nhau, tạo nên một vùng Nam Trung Bộ với các tỉnh thành hiện tại như sau:
| STT | Tên | Trung tâm hành chính (phường) | Diện tích (km²)[3] | Dân số (người)[3] | Mật độ (người/km²) | Hành chính | Biển số xe | Mã vùng ĐT | ||
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| Phường | Xã | Đặc khu | ||||||||
| 11.859,59 | 3.065.628 | 258 | ||||||||
| 2 | 14.832,55 | 2.161.755 | 145 | |||||||
| 3 | 21.576,93 | 3.583.693 | 166 | |||||||
| 4 | 18.096,40 | 3.346.853 | 184 | |||||||
| 5 | 8.555,86 | 2.243.554 | 262 | |||||||
| 6 | 24.233,07 | 3.872.999 | 159 | |||||||
| Toàn vùng | 99.154,4 | 18.274.482 | 184 | 107 | 505 | 4 | ||||
Theo cách chia Trung Bộ thành 4 phần Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên thì Duyên hải Nam Trung Bộ gồm 3 tỉnh:Khánh Hòa,Ninh Thuận,Bình Thuận. Thành phốĐà Nẵng và các tỉnhQuảng Nam,Quảng Ngãi,Bình Định,Phú Yên cùng với các tỉnhQuảng Bình,Quảng Trị,Thừa Thiên – Huế hợp thành vùng (Duyên hải) Trung Trung Bộ. Thành phố trung tâm và lớn nhất là thành phốĐà Nẵng.
Tài liệu trước đây của Tổng cục Thống kê Việt Nam và một số ít tài liệu khác dựa theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê lại xếp 2 tỉnhNinh Thuận,Bình Thuận (thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ) vào vùng Đông Nam Bộ. Hiện nay Tổng cục Thống kê đã xếp Bình Thuận cùng Ninh Thuận vào vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Hiện nay, hầu hết các đô thị vốn trước đây là thị xã tỉnh lỵ của các tỉnh trong vùng đều đã trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh (ngoại trừĐà Nẵng trực thuộc trung ương từ đầu năm 1997). Trong đó, tỉnhQuảng Nam có 2 thành phố làTam Kỳ vàHội An, tỉnhKhánh Hòa có 2 thành phố làNha Trang vàCam Ranh.
Trong suốt thời kỳ từ sau năm 1975 cho đến năm 1986, toàn vùng Nam Trung Bộ chỉ có 2 thành phố làĐà Nẵng vàNha Trang. Từ năm1986 đến nay, lần lượt các thị xã được nâng cấp trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh.
Các thành phố trước năm 1986:
Các thành phố từ năm 1986 đến nay:
Hiện nay, ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên có 3đô thị loại I: thành phốĐà Nẵng (trực thuộc Trung ương),Quy Nhơn (thuộc tỉnhBình Định),Nha Trang (thuộc tỉnhKhánh Hòa). Các thành phố làđô thị loại II:Tam Kỳ (thuộc tỉnhQuảng Nam),Quảng Ngãi (thuộc tỉnhQuảng Ngãi),Tuy Hòa (thuộc tỉnhPhú Yên),Phan Rang – Tháp Chàm (thuộc tỉnhNinh Thuận),Phan Thiết (thuộc tỉnhBình Thuận). Các thành phố còn lại hiện nay đều là cácđô thị loại III trực thuộc tỉnh.
Địa hình: Các vùng gò, đồi thuận lợi chăn nuôi bò, dê, cừu. Đồng bằng Tuy Hòa màu mỡ thuận lợi sản xuất lương thực thực phẩm.
Tài nguyên lớn nhất của vùng là kinh tế biển. Kinh tế biển ở đây bao gồm: Nguồn lợi hải sản (chiếm gần 20% sản lượng đánh bắt của cả nước) và nuôi trồng thủy sản, nhất là các loại đặc sản (tôm,tôm hùm, cá mú, ngọc trai...) với diện tích có thể nuôi trồng là 60.000 ha trên các loại thủy vực: mặn, ngọt, lợ. Vận tải biển trong nước và quốc tế. Chùm cảng nước sâu đảm bảo tàu có trọng tải lớn vào được, có sẵn cơ sở hạ tầng và nhiều đất xây dựng để xây dựng các khu công nghiệp tập trung gắn với các cảng nước sâu và với vị trí địa lý của mình có thể chọn làm cửa ngõ ra biển cho đường "xuyên Á". Có triển vọng vềdầu khí ở thềm lục địa.
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên nằm trong khu vực có tiềm năng về khoáng sản của Việt Nam, đáng chú ý làsa khoáng nặng, cát trắng (cho phép vùng trở thành trung tâm phát triển công nghiệpthủy tinh, kính quang học), đá ốp lát, nước khoáng, vàng...
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên có nhiềusân bay quốc tế và có nhiều cảng biển nước sâu có thể đón được các loại tàu biển có trọng tải lớn nhưcảng Cam Ranh, Khánh Hòa, một trong những cảng biển nước sâu lớn nhất cả nước. Đồng bằng Quảng Ngãi rộng khoảng 1.200 km² bao gồm cả thung lũngsông Trà Khúc vàsông Vệ cũng được cấu tạo tương tự đồng bằng Quảng Nam. Nhưng vào mùa khô sông Trà Khúc và sông Vệ đều cạn nước đến mức người ta có thể lội qua, hiện nay trên sông Trà Khúc đã cócông trình thủy nông Thạch Nham ngăn sông, xây dựng hệ thống kênh mương chuyển nước phục vụ sản xuất cho nhiều huyện.Khí hậu: có hai mùa mưa khô tương phản rõ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12. Lượng mưa trung bình năm vào khoảng 900 đến 1000 mm.
Du lịch biển, đảo và di tích lịch sử văn hóa dân tộc là nguồn lực quan trọng, là một trong 3 trung tâm du lịch của cả nước (ngoài thủ đôHà Nội vàThành phố Hồ Chí Minh), trong đó nổi bật là dảiĐà Nẵng -Hội An,Quy Nhơn -Phú Yên,Nha Trang -Cam Ranh -Ninh Chử, vàMũi Né.Sân bay quốc tế Đà Nẵng vàCam Ranh là 2 sân bay lớn trong vùng, đón lượng lớn khách du lịch nước ngoài cũng như trong nước. Bên cạnh đó,sân bay Phù Cát ở Bình Định cũng tăng trưởng liên tục về lượng khách thông quan trong nhiều năm qua, hiện đang đúng thứ 3 về lưu lượng khai thác. Và đang mở thêm các đường bay mới trong nước cũng như ra quốc tế (đếnHàn Quốc,Trung Quốc,Thái Lan).
Có nhiều bãi tôm, bãi cá, đặc biệt ở vùng cực Nam Trung Bộ. Có ngư trường lớn ởHoàng Sa (Đà Nẵng) vàTrường Sa (Khánh Hòa).
Sản lượng đánh bắt hải sản năm 2006 đã hơn 624.000 tấn, trong đó sản lượng cá chiếm 420.000 tấn.
Trong vùng có nhiều vũng, vịnh, đầm phá... có lợi cho việc nuôi trồng thủy sản. Nuôi tôm hùm, tôm sú đang phát triển mạnh, nhất là ởPhú Yên vàKhánh Hòa.
Tương lai ngành thủy hải sản sẽ giải quyết được vấn đề lương thực của vùng và cung cấp được nhiều sản phẩm giúp chuyển dịch cơ cấu nông thôn ven biển.
Tuy nhiên, việc khai thác hợp lý và bảo vệ nguồn lợi thủy sản (nhất là Hoàng Sa - Trường Sa) là rất cấp bách.
Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên là vùng có nhiều điều kiện thuận lợi nhất để xây dựng các cảng nước sâu do bờ vịnh khúc khuỷu, nhiều vịnh nước sâu.
Hiện tại có một số cảng lớn do Trung ương quản lý như:Đà Nẵng,Quy Nhơn (sản lượng hàng hoá lớn thứ 3 cả nước),Cam Ranh...,cảng nước sâu Dung Quất. Ởvịnh Vân Phong sẽ hình thành cảng trung chuyển quốc tế lớn nhất nước, và cạnh tranh với các cảng lớn trong khu vực.
Ngành du lịch phát triển mạnh nhờ có nhiều bãi biển lý tưởng, thắng cảnh đẹp, di tích lịch sử, văn hóa đa dạng.
Đà Nẵng và Quy Nhơn là một trong những đầu mối giao thông đường biển quan trọng nhất của cả nước.
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên có số dân là 9.385.214 người. 3 tỉnhQuảng Nam,Bình Thuận vàBình Định có dân số đông nhất, dân số của riêng 3 tỉnh này chiếm gần một nửa dân số của vùng (45,2%).[14]
Có khoản 3,9 triệu người (38% dân số) sinh sống ở các thành phố và khu dân cư.Đà Nẵng,Khánh Hòa,Bình Định vàBình Thuận là 4 địa phương có đa số dân cư sống ở thành thị. Trong khi đó đa số dân cưQuảng Nam,Quảng Ngãi lại sống ở nông thôn.[14]
Từ năm 2000 đến 2017, tỉ lệ tăng dân số trung bình hằng năm của vùng là 1,22%. Trong đó Đà Nẵng là địa phương tăng nhanh nhất - khoảng 1,95%; Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định tăng chậm nhất - khoảng 1%. Bốn tỉnh còn lại có tốc độ tăng từ 1,26% (Khánh Hòa) đến 1,59% (Ninh Thuận).[14]
Như các vùng khác, dân tộc chiếm đa số của vùng làdân tộc Kinh. Có một vài dân tộc thiểu số, trong đó đáng chú ý làdân tộc Chăm. Họ sống chủ yếu ở xung quanh thành phốPhan Rang - Tháp Chàm (tỉnh lị Ninh Thuận) và phía bắc tỉnh Bình Thuận. Họ cũng sống rải rác ở một số nơi khác, như phía nam tỉnh Bình Định. Những dân tộc thiểu số khác sống ở phần đồi núi phía tây của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Vùng sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn một nửa diện tích của tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Trước khi giải thể cấp huyện, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên có: