| Driocephalus | |
|---|---|
| Phân loại khoa học | |
| Giới: | Animalia |
| Ngành: | Arthropoda |
| Lớp: | Copepoda |
| Bộ: | Siphonostomatoida |
| Họ: | Sphyriidae |
| Chi: | Driocephalus Raibaut, 1999 |
| Loài: | D. cerebrinoxius |
| Danh pháp hai phần | |
| Driocephalus cerebrinoxius (Diebakate, Raibaut &Kabata, 1997) | |
| Các đồng nghĩa[1] | |
| |
Driocephalus là một chigiáp xác chân chèođơn loài thuộc họSphyriidae. Loài duy nhất của chi này làDriocephalus cerebrinoxius, một loàiký sinh trùng sống trongkhoang mũi của một số loàicá mập. Đây là loài chân chèo duy nhất được biết đến có khả năng ký sinh trên não của vật chủ.
Cheikhna Diebakate, André Raibaut vàZbigniew Kabata đã mô tả chiThamnocephalus và loài duy nhất của nó làThamnocephalus cerebrinoxius vào năm 1997, công bố mô tả trên tạp chíSystematic Parasitology.[1][2][3] Tuy nhiên, đây lại làdanh pháp đồng âm với chitôm tiênThamnocephalus, đượcAlpheus Spring Packard mô tả vào năm 1877.[4] Raibaut sau đó công bố một tên thay thế vào năm 1999, đổi tênchi thànhDriocephalus và kết hợpdanh pháp hai phần thànhDriocephalus cerebrinoxius.[4][5] Tính ngữ chungDriocephalus có nguồn gốc từ các từtiếng Hy Lạpdrios, nghĩa là "rừng rậm" hoặc "lùm cây"), vàcephalos, nghĩa là "đầu".[5] Tính ngữ cụ thể có nguồn gốc từ các từtiếng Latinhcerebrum, nghĩa là "não" vànoxius, nghĩa là "có hại".[3]
Chỉ có những con cái trưởng thành của loài này được ghi nhận.[3][4]Mẫu định danh và ba mẫu vật phụ đều được thu thập từ vùng biểnĐại Tây Dương ngoài khơiSénégal và gửi vào bộ sưu tập củaBảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp.[3] Loài này cũng đã được thu thập từVịnh Gabès,Biển Đỏ vàThái Bình Dương gầnNhật Bản.[3][4]
Cơ thể của con cáiDriocephalus cerebrinoxius trưởng thành có thể được chia thành ba phần:phần đầu ngực vớicơ quan bám chặt phân nhánh, cổ mỏng vàthân mình dẹt. Đầu của phần đầu ngực mang một phần bám chặt lớn, rậm rạp bao gồm nhiều nhánh.[4] Cổ mỏng, phân định rõ ràng với phần đầu ngực và có hình trụ, mỏng dần về phía thân. Thân mang bộ phận sinh dục, dẹt và hơi tròn với hai cặp thùy ở rìa sau. Phần bụng bị tiêu biến thành một khối sưng nhỏ ở mặt dưới của thân, với hai mấu sau hình trụ hơi dẹt ở hai bên.[3][4] Túi trứng có hình xúc xích.[4] Đến năm 2006, cá thể đực của loài này vẫn chưa được ghi nhận.[3][4]
Con cáiDriocephalus cerebrinoxius trưởng thành là loài ký sinh trung gian củacá nhám chó râu (Leptocharias smithii),cá mập cát (Carcharhinus plumbeus),cá nhám chó mắt to (Iago omanensis) vàcá nhám điểm sao (Mustelus manazo), bám vàohành khứu giác ở não vật chủ trong khi phần thân sau luồn lách tự do trongkhoang mũi.[3] Các loài chân chèo ký sinh khác được biết là cũng cư ngụ trong khoang mũi của vật chủ, tuy nhiên tính đến năm 2006 thìD. cerebrinoxius là loài duy nhất được biết là có thể xâm nhập qua hành khứu giác và ký sinh trong hệ thần kinh.[3][4] Tác động của loài ký sinh trùng này lên vật chủ vẫn chưa được biết rõ.[3]