| Dracaena cinnabari | |
|---|---|
Cây long huyết ở cao nguyên Dieksum (Dixsam),Socotra | |
| Tình trạng bảo tồn | |
| Phân loại khoa học | |
| Giới(regnum) | Plantae |
| (không phân hạng) | Angiospermae |
| (không phân hạng) | Monocots |
| Bộ(ordo) | Asparagales |
| Họ(familia) | Asparagaceae |
| Phân họ(subfamilia) | Nolinoideae |
| Chi(genus) | Dracaena |
| Loài(species) | D. cinnabari |
| Danh pháp hai phần | |
| Dracaena cinnabari Balf.f., 1882 | |
| Danh pháp đồng nghĩa | |
Draco cinnabari(Balf.f.) Kuntze, 1891 | |
Dracaena cinnabari, haycây máu rồng, hoặccây long huyết (tên thông tục trong tiếng Anh làDragon Blood Tree) là một loàithực vật có hoa thuộchọ Măng tây. Đôi khi loài cây này bị nhầm lẫn với câyDracaena draco. Loài này đượcIsaac Bayley Balfour mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1882. Loài cây này trồng chủ yếu tại quần đảoSocotra thuộcYemen trênẤn Độ Dương. Người dân địa phương gọi nó là làDam al-Akhawain (nghĩa là "máu của hai anh em"). Tên gọi "cây máu rồng" là do nhựa cây màu đỏ của nó.[2][3]
Cây máu rồng là loài cây nổi bật nhất trong số 900 loài thực vật trên quần đảo Socotra, thuộcBiển Ả Rập cách vùng đất liền của Yemen 380 km về phía Nam.[4] Dáng cây máu rồng trông giống như một cây nấm. Bên dưới chủ yếu là cành còn hầu hết lá đều nằm ở bên trên và phân bố khá đều.
Cây máu rồng có vẻ ngoài đặc biệt với tán cây trông như một cái ô đang mở. Giống cây thường xanh này được đặt tên theo nhựa màu đỏ sẫm của nó, được biết đến như là "máu rồng". Không giống hầu hết các loàithực vật một lá mầm,Dracaena có hiện tượngsinh trưởng thứ cấp,D. cinnabari thậm chí còn có các vùng sinh trưởng giống như là các vòng cây ở các loài cây hai lá mầm. Cùng với các loàiDracaena dạng cây gỗ khác, nó có một cách sinh trưởng đặc biệt gọi là "phương thức phát triển dracoid".[5] Lá cây chỉ xuất hiện ở ngọn những cành non nhất; tất cả các lá đều rụng 3 hoặc 4 năm một lần trước khi các lá mới đồng thời trưởng thành. Phân nhánh thường xảy ra khi sự phát triển của chồi cuối bị ngừng lại, do sự ra hoa hoặc các tổn thương (ví dụ dođộng vật ăn thực vật).[6]
Cây có những quả mọng nhỏ chứa từ 1 đến 4 hạt. Quả chuyển dần từ màu xanh lá cây sang màu đen, rồi màu cam khi chín. Các loài chim (nhưOnychognathus frater) ăn quả vàphát tán hạt. Hạt có đường kính 4–5 mm và nặng trung bình 68 mg.[6] Quả mọng tiết ra chất nhựa màu đỏ đậm, được gọi là "máu rồng".[7]
Hình dáng khác thường của cây huyết rồng là sự thích nghi để sinh tồn trong điều kiện khắc nghiệt, chẳng hạn như trên đỉnh núi. Tán cây lớn, dày đặc cung cấp bóng râm và giảm sự bay hơi. Bóng râm này cũng tạo điều kiện cho các cây con mọc bên dưới, giải thích tại sao các cây có xu hướng mọc gần nhau.[1]
Mô tả đầu tiên vềD. cinnabari được thực hiện trong một cuộc khảo sát quần đảo Socotra do Đại úy hải quân James Raymond Wellsted củaCông ty Đông Ấn Anh dẫn đầu vào năm 1835. Đầu tiên loài này được đặt tên làPterocarpus draco, nhưng tới năm 1880, nhà thực vật học người ScotlandIsaac Bayley Balfour đã đặt tên lại thànhDracaena cinnabari trong mô tả chính thức của ông.[8] Trong khoảng từ 60 đến 100 loàiDracaena,D. cinnabari là một trong sáu loài phát triển thành cây gỗ.[6]
Cùng với các loài thực vật khác trên quần đảo Socotra, D. cinnabari được cho là có nguồn gốc từhệ thực vật Tethys. Nó được coi là tàn tích của những khu rừng cận nhiệt đớiLaurasiaMiocen-Pliocen, hiện nay gần như tuyệt chủng do quá trình sa mạc hóa trên diện rộng ở Bắc Phi.[9]
Một khu rừng có nhiềuD. cinnabari nằm trên cao nguyên đá vôi tên là Rokeb di Firmihin. Khu rừng rộng khoảng 540 hécta (1.300 mẫu Anh) này có nhiều loài quý hiếm. Nghiên cứu cho thấy trong những thập kỷ tới số lượng cây trong khu rừng này sẽ giảm do không còn khả năng tái sinh tự nhiên.[10]
Người dân quần đảo Soquotra sử dụng nhựaD. cinnabari trong y học dân gian để chữa bá bệnh.[11] Nhựa cây máu rồng được sử dụng như chất kích thích và thuốc phá thai.[11][12] Rễ cây tạo ra một loại nhựa-cao su được sử dụng trong nước súc miệng như một chất kích thích, chất làm se và trong kem đánh răng. Rễ được sử dụng trong điều trị bệnh thấp khớp, lá có thể dùng để gâytrung tiện.[13]
Nhựa đỏ của cây từng có giá rất cao thời cổ đại và ngày nay vẫn còn được sử dụng. Xung quanh lưu vực Địa Trung Hải, nó được sử dụng làm thuốc nhuộm và thuốc chữa bệnh. Người dân trên đảo Socotra sử dụng nó làm vật trang trí cũng như nhuộm vải, làm keo dán đồ gốm, làm thơm hơi thở và làm son môi. Vì niềm tin rằng đó là máu của rồng nên nó cũng được sử dụng trong các nghi lễ vàthuật giả kim.[14] Vào năm 1883, nhà thực vật học người ScotlandIsaac Bayley Balfour đã xác định được ba loại nhựa: loại có giá trị nhất là có bề ngoài giống như giọt nước mắt, sau đó là hỗn hợp các mảnh nhỏ hơn, với hỗn hợp các mảnh vụn là rẻ nhất.[8]
{{Chú thích tạp chí}}: Quản lý CS1: DOI truy cập mở nhưng không được đánh ký hiệu (liên kết) Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết)