Bài viết nàylà một bảndịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. Xin hãy giúpcải thiện bài viết hoặc viết lại để hành văn tiếng Việt được tự nhiên hơn và đúng ngữ pháp. Chú ý: Những bản dịchrõ ràng là dịch máy hoặc có chất lượng kém,KHÔNG dùng bản mẫu này, vui lòng đặt {{subst:clk|dịch máy chất lượng kém}} hoặc{{subst:cld5}} để xóa bản dịch kém. |
![]() | |
![]() | |
Dữ liệu lâm sàng | |
---|---|
Đồng nghĩa | Dihydromorphine, Paramorphan |
Dược đồ sử dụng | Miệng, Trong tĩnh mạch, Trong mũi, Dưới lưỡi |
Mã ATC |
|
Tình trạng pháp lý | |
Tình trạng pháp lý |
|
Các định danh | |
Tên IUPAC
| |
Số đăng ký CAS | |
PubChemCID | |
IUPHAR/BPS | |
DrugBank |
|
ChemSpider |
|
Định danh thành phần duy nhất | |
KEGG |
|
ChEMBL | |
ECHA InfoCard | 100.007.365 |
Dữ liệu hóa lý | |
Công thức hóa học | C17H21NO3 |
Khối lượng phân tử | 287,36 g·mol−1 |
Mẫu 3D (Jmol) | |
SMILES
| |
Định danh hóa học quốc tế
| |
![]() ![]() |
Dihydromorphin (Paramorfan,Paramorphan) là mộtopioid bán tổng hợp có cấu trúc liên quan và có nguồn gốc từmorphin. Liên kết đôi 7-8 trong morphin được giảm xuống thành một liên kết đơn để có được dihydromorphin.[1] Dihydromorphin là mộtthuốc giảm đau mạnh vừa phải và được sử dụng lâm sàng trong điều trị đau và cũng là một chất chuyển hóa hoạt động của thuốc giảm đau opioiddihydrocodeine.[2][3][4] Dihydromorphin thỉnh thoảng xảy ra với số lượng rất nhỏ trong các xét nghiệm thuốc phiện, cũng như dihydrocodeine, dihydrothebaine, tetrahydrothebaine, v.v. Quá trình sản xuất dihydromorphin từ morphin dùng trong dược phẩm đã được phát triển ởĐức vào cuối thế kỷ 19, với tổng hợp được công bố vào năm 1900 và thuốc được giới thiệu lâm sàng là Paramorfan ngay sau đó. Một tổng hợp năng suất cao từ tetrahydrothebaine sau đó đã được phát triển.[5]
Dihydromorphin được sử dụng để kiểm soát cơn đau từ trung bình đến nặng, ví dụ như những cơn đau xảy ra ở bệnh ung thư; tuy nhiên, nó kém hiệu quả hơn trong điều trị đau thần kinh và thường được coi là không phù hợp và không hiệu quả đối với chấn thương tâm lý.[2][6]
Dihydromorphin, thường được dán nhãn bằng đồng vịtriti ở dạng [3H]-dihydromorphin, được sử dụng trong nghiên cứu khoa học để nghiên cứu sự gắn kết của cácthụ thể opioid tronghệ thần kinh.[7][8]
Dihydromorphin mạnh hơn một chút so với morphin như là thuốc giảm đau có hồ sơ tác dụng phụ tương tự. Hiệu lực tương đối của dihydromorphin gấp 1,2 lần so với morphin. Khi so sánh, hiệu lực tương đối củadihydrocodeine gấp 1,15 lần so vớicodeine.[9]
Dihydromorphin hoạt động như một chất chủ vận ở các thụ thểμ-opioid (mu),δ-opioid (delta) vàκ-opioid (kappa)[2][3] Chất chủ vận của thụ thể μ-opioid và δ-opioid chịu trách nhiệm phần lớn cho các tác dụng lâm sàng của opioid như dihydromorphin với agonism μ cung cấp nhiều khả năng giảm đau hơn.[10][11]
Khởi phát hoạt động của Dihydromorphin nhanh hơn nhiều so với morphin và nó cũng có xu hướng có thời gian tác dụng lâu hơn, thường là từ 4-7 giờ.[cần dẫn nguồn]
TheoCông ước thống nhất về các chất ma túy quốc tế năm 1961 thì dihydromorphin là mộtchất ma túyBảng I bị kiểm soát và có thể sẽ khác tùy thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia.[12]