Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

David Seaman

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
David Seaman
MBE
David Seaman (2012)
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủDavid Andrew Seaman[1]
Chiều cao6 ft 3 in (1,91 m)[2]
Vị tríThủ môn
Thông tin đội
Đội hiện nay
Wembley (huấn luyện viên thủ môn)
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
NămĐội
1981–1982Leeds United A.F.C.
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
NămĐộiST(BT)
1982–1984Peterborough United91(0)
1984–1986Birmingham City75(0)
1986–1990QPR141(0)
1990–2003Arsenal405(0)
Tổng cộng731(0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
NămĐộiST(BT)
1984–1986U21-Anh10(0)
1987–1992Anh B6(0)
1988–2002Anh75(0)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

David Andrew Seaman,MBE (sinh ngày 19 tháng 9 năm 1963) là một cựucầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị tríthủ môn. Trong sự nghiệp kéo dài từ năm 1981 đến 2004, ông nổi tiếng nhất nhờ quãng thời gian chơi bóng cho câu lạc bộArsenal. Ông đã có tới 75 lần khoác áođội tuyển Anh và là thủ môn có nhiều lần ra sân cho đội tuyển nước này chỉ sauPeter Shilton.[3] Năm 1997, ông được trao huân chươngMBE nhờ những cống hiến cho bóng đá.

Đỉnh cao sự nghiệp của Seaman nằm ở quãng thời gian ông làm thủ môn cho Arsenal và tuyển Anh ở các thập niên 1990 và 2000. Trong thời gia khoác áo Arsenal, ông đã giành 3 chức vô địch quốc gia (1991, 1998, 2002), 4Cúp FA (1993, 1998, 2002, 2003),Cúp Liên đoàn Anh năm 1993 vàWinners' Cup 1994. Ông cũng thi đấu cho tuyển Anh ở các chiến dịchgiải vô địch thế giới (19982002) vàgiải vô địch châu Âu (19962000).

Pha cứu thua của Seaman trước cú dứt điểm củaPaul Peschisolido từ độiSheffield United tại trận bán kếtCúp FA 2002–03 được giới truyền thông miêu tả là một trong những pha cản phá hay nhất từ trước đến nay. Seaman từng đượcSách Kỷ lục Guinness ghi danh nhờ thành tích bắt bóng rơi từ độ cao kỷ lục 102,5 m.[4][5] Những điểm trừ trong sự nghiệp của ông là hai lỗi nghiêm trọng mà ông mắc phải đều đến từ những tình huống sút xa — đầu tiên là bàn thủng lưới muộn phút bù giờ trong trậnChung kết Winners' Cup 1995 của Arsenal và bàn thủng lưới từ pha đá phạt củaRonaldinho bên phíaBrasil tại từ kếtgiải vô địch thế giới 2002 của tuyển Anh.[6][7][8][9] Vốn là một ngườithuận trái,[10] song Seaman lại ném bóng bằng tay phải[11] và sút bóng bằng chân phải. Năm 2004 ông giải nghệ do tái phát chấn thương vai. Tháng 6 năm 2012, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện thủ môn của câu lạc bộWembley thuộc giảiCombined Counties Football League.

Sự nghiệp cấp câu lạc bộ

[sửa |sửa mã nguồn]

Những năm khởi nghiệp

[sửa |sửa mã nguồn]

Seaman chào đời tạiRotherham, phân khuWest Riding của hạtYorkshire, Anh. Ông từng theo học tại Trường phổ thông hỗn hợp Kimberworth. Ông khởi nghiệp tạiLeeds United – câu lạc bộ mà ông hâm mộ khi còn bé. Tuy nhiên ông lại không được huấn luyện của đội lúc bấy giờ là Eddie Gray (cầu thủ mà Seaman một thời mến mộ) để ý đến. Seaman chuyển đến câu lạc bộPeterborough United ở giải hạng 4 với mức phí 4.000bảng vào tháng 8 năm 1982 nhằm bắt đầu tạo dựng tên tuổi cho mình.

Chỉ trong hơn 2 năm sau, tháng 10 năm 1984, câu lạc bộ chơi ởgiải hạng 2Birmingham City đã chi 100.000 bảng để có được sự phục vụ của Seaman. Sau cùng họ đãthăng hạng vào cuối mùa bóng, nhưng lại rớt hạng vào mùa kế tiếp. Tuy nhiên Seaman không ở lại đội chơi ở giải hạng 2 mà chuyển đến đầu quân choQueens Park Rangers với mức phí 225.000 bảng vào tháng 8 năm 1986.

Arsenal

[sửa |sửa mã nguồn]

Năm 1990, rất lâu trước khi hệ thống chuyển nhượng bóng đá Anh đi vào hoạt động, các đội bóng có vài tuần để chuyển nhượng cầu thủ trước khi mùa bóng kết thúc. Arsenal – câu lạc bộ giành chức vô địch quốc gia năm 1989 – đã muốn ký hợp đồng với Seaman, nhưng trong thỏa thuận lại gắn điều khoản đểJohn Lukic – thủ môn của chính Arsenal lúc ấy – ra đi theo chiều ngược lại, dưới dạng cho mượn. Lukic không chấp nhận điều khoản này nên thỏa thuận bị đổ vỡ và các bên đều lâm vào bế tắc. Ngay khi mùa bóng khép lại và các câu lạc bộ được phép tham gia thị trường chuyển nhượng lần nữa, huấn luyện viên của Arsenal, ôngGeorge Graham đã mua lại Seaman với phí 1,3 triệu bảng (giá kỷ lục cho một thủ môn người Anh lúc bấy giờ).[12] Trong khi đó, Lukic – người được cổ động viên Arsenal rất yêu thích – chuyển đến Leeds theo chiều ngược lại.

Quãng thời gian Seaman gắn bó với Arsenal là một trong những thời kì thành công nhất lịch sử câu lạc bộ. Mùa giải 1990–91 chứng kiến Seaman chỉ để lọt lưới 18 bàn trong suốt 38 trận của mùa bóng, qua đó giúp Arsenal bảo vệ thành công chức vô địch. Năm 1993, Arsenal đoạt cú đúp chức vô địchCúp FACúp Liên đoàn Anh, năm kế tiếp còn giành danh hiệuWinners' Cup. Arsenal khởi đầu chiến dịch vô địch Cúp Liên đoàn với trận gặpMillwall, sau hai lượt trận, trận so tài bước vào loạt sút luân lưu. Seaman cản phá ba trong bốn cú dứt điểm của Millwall lần lượt đến từ Malcolm Allen, Jon Goodman và Colin Cooper bên đội bạn, qua đó giúp Arsenal đi tiếp.[13]

Năm 1995, George Graham bị sa thải và Arsenal đứng trước cơ hội trở thành câu lạc bộ đầu tiên bảo vệ thành công chức vô địch Winners' Cup, khi mà Seaman nổi danh là một chuyên gia cản phá phạt đền sau chặn được những cú sút của Siniša Mihajlović, Vladimir Jugović và Attilio Lombardo tại loạt đá luân lưu trận bán kết của Arsenal với đại diệnSampdoria của Ý, dù phải thi đấu với hai rạn sườn bị gãy.[14] Tuy nhiên, Arsenal lại để thất bại trong trận chung kết trướcReal Zaragoza tạiSân vận động Công viên các Hoàng tử ở Paris, khi Nayim ghi bàn ở phút cuối hiệp phụ với một cú lốp bóng tầm 40 yard đánh bại Seaman.[15][16]

Tháng 8 năm 1996,Arsène Wenger trở thành huấn luyện viên mới của Arsenal. Wenger là người đánh giá Seaman rất cao và vàonăm 1998, thủ môn này đã góp công giúp đội bóng giành cú đúp vô địchGiải Ngoại hạng AnhCúp FA. Ởmùa bóng 1998–99, Seaman thi đấu tất cả 38 trận tại giải vô địch quốc gia, chỉ để lọt lưới 17 bàn nhưng không đủ để giúp Pháo thủ bảo vệ thành công chức vô địchGiải Ngoại hạng Anh, đồng thời để thua trận bán kếtCúp FA trướcManchester United. Mùa bóng kế tiếp, Seaman cùng Arsenal tiến đến trậnChung kết Cúp UEFA 2000 và hòa 0–0 vớiGalatasaray, nhưng để thất thủ trên chấm đá luân lưu.[17][18]

Năm 2002, Seamon đoạt ngôivô địch Ngoại hạng AnhCúp FA lần nữa để hoàn tất cú đúp danh hiệu lần thứ 2 trong sự nghiệp của ông, mặc dù các thủ môn dự bị của Arsenal là Stuart Taylor (10 trận ra sân) và Richard Wright (12 trận ra) cũng được trao huân chương vô địch mùa bóng đó, chủ yếu bởi Seaman vắng mặt do chấn thương. Ông tạo nên điểm nhấn của mùa giải với pha cản phá cú đá phạt đền củaGareth Barry trong trận Arsenal thắng độiAston Villa 2–1.[19]

Manchester City

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau khi rời Arsenal, Seaman hội ngộ cùng huấn luyện viênKevin Keegan tại câu lạc bộManchester City vào mùa hè năm 2003, nhưng sự nghiệp của Seaman tạiSân vận động Thành phố Manchester không kéo dài lâu. Do liên tục phải nghỉ thi đấu vì chấn thương, ông sớm tuyên bố treo găng vào tháng 1 năm 2004 ở tuổi 40. Hành động cuối của Seaman tại City là giúp đỡ Keegan lựa chọn người kế nhiệm ông, và ông đã lựa chọnDavid James – thủ môn từng chiếm vị trí số 1 trong khung gỗ tuyển Anh từ chính Seaman cách đó chưa đầy 1 năm.

Sự nghiệp quốc tế

[sửa |sửa mã nguồn]

Seaman có trận đá ra mắt tuyển Anh vào năm 1988 và góp mặt trên tuyển trong 15 năm tiếp – một kỷ lục của đội tuyển lúc bấy giờ (về sau bịRio Ferdinand cân bằng). Ông có trận đeo găng đầu tiên cho tuyển Anh dưới trướng huấn luyện viênBobby Robson trong trận giao hữu gặpẢ Rập Xê Út vào tháng 11 năm 1988. Robson đã lựa chọn ông ở vị trí thủ môn số 3 của tuyển Anh sauPeter ShiltonChris Woods tạiGiải vô địch thế giới 1990, nhưng sau khi đặt chân đến Ý thì lại phải rời đội tuyển sớm vì chấn thương, và người thay thế cho ông làDave Beasant.

Seaman dần xây chắc vị trí của mình trong khung gỗ và trở thành thủ môn số 1 của tuyển Anh dưới đời huấn luyện viênTerry Venables, qua đó không bỏ một phút thi đấu nào tạigiải vô địch châu Âu 1996. Ở giải đấu ấy, Seaman cản phá được 2 quả phạt đền. Quả đầu tiên là trước chân sútGary McAllister củađội tuyển Scotland ở vòng bảng. Seaman chặn được cú đá trong lúc tuyển Anh vừa dẫn trước 1-0, không lâu sauPaul Gascoigne ghi bàn nâng tỷ số lên 2-0. Kế đó, ở trận tứ kết khi tuyển Anh vàTây Ban Nha bất phân thắng bại sau 90 phút thi đấu chính thức, ông đẩy được cú sút luân lưu củaMiguel Ángel Nadal để loại Tây Ban Nha khỏi giải. Sau cùng tuyển Anh của ông bị loại bởituyển Đức trên chấm đá luân lưu ở trận bán kết, sau khi thủ mônAndreas Köpke của Đức đỡ được cú sút củaGareth Southgate.[20] Cùng vớiAlan Shearer – chủ nhân chiếc giày vàng của giải và tiền vệ cánhSteve McManaman, ông được vinh danh bằng một vị trí trong "Đội hình tiêu biểu của giải" doLiên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) lựa chọn.[21] Nhà tài trợ giải vô địch châu Âu năm 96 làPhilips cũng tôn vinh Seaman là "Cầu thủ hay nhất giải".

Seaman vẫn là lựa chọn số một dưới quyền huấn luyện viênGlenn Hoddle tạigiải vô địch thế giới 1998 tổ chức tại Pháp. Ông giữ sạch lưới hai trận ở vòng bảng giúp tuyển Anh cán địch ở vị trí thứ 2 sauRomânia.[22][23] Ở vòng 16 đội, trong trận Anh chạm tránArgentina, cầu môn của Seaman bị thủng lưới bởi một quả phạt đền, đưa tỉ số trận đấu về thế quân bình 2-2, trước khi Anh để thua trên chấm luân lưu.[24]Kevin Keegan tiếp tục lựa chọn Seaman bắt bóng tạiGiải vô địch châu Âu 2000,[25] nơi ông bắt đầu chiến dịch với các trận đấu gặpBồ Đào Nha và Đức, nhưng rồi gặp chấn thương trong lúc khởi động cho trận thứ 3 đối đầu România, khiến vị trí gác đền của ông rơi vào tayNigel Martyn. Kết quả là tuyển Anh thua trận và bị loại ngay sau vòng bảng.

Lối chơi

[sửa |sửa mã nguồn]

Ở thời đỉnh cao phong độ, Seaman được xem là một trong những thủ môn hay nhất thế giới trong thập niên 1990, qua đó nhận được nhiều khen ngợi từ các đồng nghiệp đàn anh nhưSepp MaierFrancesco Toldo.[26][27] Là một thủ môn cao và dạn dày kinh nghiệm cùng thân hình to lớn, ông nổi tiếng nhờ bản lĩnh trận mạc, phản xạ tinh tường, nhanh nhẹn và cảm quan chọn vị trí xuất sắc, cũng như có khả năng xử lý bóng và phán đoán bóng tốt, cho phép ông có thể rời vòng cấm địa để chỉ huy khu vực của mình hiệu quả, làm cho giới truyền thông tặng cho ông biệt danh "safe hands" (đôi bàn tay an toàn).[28][29][30][31][32][33][34] Mặc dù không phải dạng thủ môn có lối chơi bóng hào nhoáng, Seaman được xem là một thủ môn thi đấu hiệu quả và nhìn chung là đáng tin cậy, với một phong thái lạnh lùng, sự hiện diện quyết đoán và bình tĩnh trong cầu môn, cũng như khả năng lãnh đạo và tổ chức tuyến sau của đội bóng, tạo nên cảm giác tự tin cho các đồng đội.[26][33][34][35][36][37][38] Ông còn là một chuyên gia cản phá phạt đền.[39] Tuy nhiên, bất chấp khả năng chơi bóng đỉnh cao và tuổi thọ nghề tương đối lâu, ông còn được biết tới với tính cách thiếu nhất quán và đôi khi dễ mắc sai lầm, cụ thể là ở nửa sau sự nghiệp của ông do bị hàng loạt chấn thương hành hạ và bị cả tuổi tác ảnh hưởng, sau cùng dẫn đến thể chất của ông bị suy giảm và kéo theo hàng loạt những màn trình diễn kém thuyết phục;[27][31][35][40][41][42] ông cũng thường xuyên phải vất vả khi đối đầu với những cú sút xa trong suốt sự nghiệp.[43][44]

Với vị thế là một trong những thủ môn người Anh xuất sắc nhất mọi thời đại[44][45][46] và một trong những thủ môn hay nhất lịch sửgiải Ngoại hạng Anh nói riêng và bóng đá Anh nói chung,[32][37] Seaman từng về đích thứ 2 trong cuộc bầu chọn cho danh hiệu "Thủ môn xuất sắc nhất thế giới năm 1996" củaLiên đoàn thống kê và lịch sử bóng đá quốc tế (IFFHS) chỉ sauAndreas Köpke,[47] đồng hạng 32 vớiEnrico Albertosi trong cuộc bầu chọn "Thủ môn châu Âu của Thế kỷ" và hạng 4 trong cuộc bầu chọn các thủ môn người Anh hay nhất cũng đều do IFFHS tổ chức.[48] Năm 2013, James McNicholas củaBleacher Report miêu tả Seaman là "thủ môn xuất sắc nhất lịch sử Arsenal".[49] Vốn là một ngườithuận trái, song Seaman lại ném bóng bằng tay phải và cũng sút bóng bằng chân phải nốt.[11] Bên cạnh tài năng làm thủ môn, Seaman cũng là một nhân vật rất được nhiều người chú ý trên sân cỏ bởi bộ ria mép và kiểu tóc buộc đuôi ngựa thương hiệu mà ông để trong suốt sự nghiệp của mình.[30]

Thống kê sự nghiệp

[sửa |sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa |sửa mã nguồn]
Nguồn:David Seaman tại Cơ quan Lưu trữ Bóng đá Quốc gia Anh (ENFA)(cần đăng ký mua)
Số trận ra sân và bàn thắng theo câu lạc bộ, mùa giải và giải đấu
Câu lạc bộMùa giảiVô địch
quốc gia
Cúp FACúp Liên đoàn AnhCúp châu ÂuKhácTổng cộng
Hạng đấuTrậnBàn thắngTrậnBàn thắngTrậnBàn thắngTrậnBàn thắngTrậnBàn thắngTrậnBàn thắng
Leeds United1981–82First Division00000000
Peterborough United1982–83Fourth Division38040403[a]0490
1983–84Fourth Division450104000500
1984–85Fourth Division8020100
Tổng cộng91050100301090
Birmingham City1984–85Second Division33040370
1985–86Hạng nhất4201040470
Tổng cộng7505040840
Queens Park Rangers1986–87First Division4104030480
1987–88First Division320103000360
1988–89First Division35030404[b]0460
1989–90First Division3309030450
Tổng cộng1410170130401750
Arsenal1990–91First Division3808040500
1991–92First Division42010304[c]01[d]0510
1992–93Ngoại hạng Anh3908090560
1993–94Ngoại hạng Anh39030509[e]01[d]0570
1994–95Ngoại hạng Anh31020609[e]02[f]0500
1995–96Ngoại hạng Anh3802070470
1996–97Ngoại hạng Anh22020202[g]0280
1997–98Ngoại hạng Anh31040102[g]0380
1998–99Ngoại hạng Anh32050006[h]01[d]0440
1999–2000Ngoại hạng Anh24020109[i]000360
2000–01Ngoại hạng Anh240500010[h]0390
2001–02Ngoại hạng Anh17010007[h]0250
2002–03Ngoại hạng Anh28050009[h]01[d]0430
Tổng cộng4050480380670605640
Manchester City2003–04Ngoại hạng Anh19010105[g]0260
Tổng cộng sự nghiệp73107606607201309580
  1. ^Số trận thi đấu tạiFootball League Group Cup
  2. ^3 trận thi đấu tạiFull Members' Cup, một trận đá tạiFootball League Centenary Trophy
  3. ^Số trận ra sân tạiCúp C1
  4. ^abcdSố trận ra sân tạiSiêu cúp Anh
  5. ^abSố trận thi đấu tạiUEFA Cup Winners' Cup
  6. ^Số trận ra sân tạiSiêu cúp châu Âu
  7. ^abcSố trận ra sân tạiCúp UEFA
  8. ^abcdSố trận thi đấu tạiUEFA Champions League
  9. ^2 trận thi đấu tạiUEFA Champions League, 7 trận đá tạiCúp UEFA

Quốc tế

[sửa |sửa mã nguồn]

[50][51]

Đội tuyển Anh
NămSố trận đáBàn thắng
198810
198910
199010
199140
199220
199330
199440
199550
1996110
199760
199890
199980
200070
200150
200280
Tổng cộng750

Danh hiệu

[sửa |sửa mã nguồn]

Arsenal

Cá nhân

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^"David Seaman".Barry Hugman's Footballers.
  2. ^"David Seaman".11v11.com. AFS Enterprises. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2020.
  3. ^"England's Goalkeepers in Most Appearance Order".England Football Online. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2019.
  4. ^"Highest catch of a football (soccer ball)".Sách Kỷ lục Guinness. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2020.
  5. ^"32 cầu thủ từng ghi tên mình vào kỷ lục Guinness (Phần 3)".Báo bóng đá. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2020.
  6. ^Williams, Luke (ngày 14 tháng 4 năm 2003)."'Safe Hands' strikes back". UEFA.com. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  7. ^Harper, Nick (ngày 14 tháng 4 năm 2003)."Six of the best: the greatest saves ever?".The Guardian. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  8. ^Wallace, Sam (ngày 13 tháng 1 năm 2004)."Seaman calls time on career".The Telegraph. London. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2009.
  9. ^"BBC SPORT | Football | Photo Galleries | David Seaman's career in photos".BBC News. ngày 13 tháng 4 năm 2004. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2019.
  10. ^"Wembley 2000". Fanclub-family.com. ngày 7 tháng 10 năm 2000. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2009.
  11. ^ab"Archived copy".Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2018.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  12. ^Rich, Tim (ngày 13 tháng 5 năm 2003)."Seaman's standing unfairly undermined by rare mistakes".The Independent. London. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2010.
  13. ^Haylett, Trevor (ngày 8 tháng 10 năm 1992)."Football / Coca-Cola Cup: Seaman shines in shoot-out to deny Millwall: Winterburn hurt by coin thrower".The Independent. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2016.
  14. ^Moore, Glenn (ngày 21 tháng 4 năm 1995)."Seaman secures Arsenal triumph".The Independent. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2016.
  15. ^"1994/95: Nayim's bolt from the blue sinks Arsenal". UEFA. ngày 1 tháng 6 năm 1995.Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2019.
  16. ^Martin, Richard (ngày 13 tháng 11 năm 2014)."Nayim was 'looking at Seaman the whole night'". UEFA. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2017.
  17. ^"BBC News - FOOTBALL - Penalty heartbreak for Arsenal".news.bbc.co.uk.
  18. ^Tozar, Türker (ngày 17 tháng 5 năm 2015)."Snap shot: Galatasaray win historic UEFA Cup". UEFA.com. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2019.
  19. ^"Arsenal see off Villa". BBC. ngày 17 tháng 3 năm 2002. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2019.
  20. ^"Euro '96: From piece of history to Pizza Hut".ESPN.co.uk. ngày 7 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  21. ^ab"UEFA Euro 2008 Information"(PDF). UEFA. tr. 88. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2008.
  22. ^"Sport: Football England beat Tunisia". BBC. ngày 15 tháng 6 năm 1998. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020.
  23. ^"Sport: Football England keeps France 98 dream alive". BBC. ngày 27 tháng 6 năm 1998. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020.
  24. ^"Sport: Football England pay penalty again". BBC. ngày 30 tháng 6 năm 1998. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020.
  25. ^"Keegan names Euro 2000 squad".BBC Sport. British Broadcasting Corporation. ngày 1 tháng 6 năm 2000.Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2020.
  26. ^abRialti, Alessandro (ngày 10 tháng 10 năm 1995)."Toldo: ho preso al volo la fortuna".La Stampa (bằng tiếng Ý). tr. 31. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  27. ^ab"Is Seaman a 'spent force'?".BBC Sport. ngày 30 tháng 8 năm 2001. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  28. ^"Greatest 50 Players - 7. David Seaman". Arsenal. ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  29. ^"How they rated: England player by player".The Guardian. ngày 3 tháng 9 năm 2000. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  30. ^abMagee, Will (ngày 21 tháng 6 năm 2017)."The Tragedy Of David Seaman Getting Lobbed By Ronaldinho at the 2002 World Cup".Vice News. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  31. ^ab"Seaman still first choice".BBC Sport. ngày 5 tháng 8 năm 2000. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  32. ^abMiller, Nick (ngày 19 tháng 10 năm 2018)."Ranked! The 10 best goalkeepers in Premier League history". FourFourTwo. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  33. ^abMassarella, Louis (ngày 1 tháng 1 năm 2004)."David Seaman: One-on-One". FourFourTwo. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  34. ^abMcNicholas, James (ngày 8 tháng 5 năm 2015)."Power Ranking the Arsenal Goalkeepers of the Arsene Wenger Era". Bleacher Report. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2020.
  35. ^abHerman, Martyn (ngày 17 tháng 11 năm 2007)."England were in safer hands in the days of perms and sideburns".Reuters.Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  36. ^Usher, Tom (ngày 3 tháng 6 năm 2016)."The Cult: David Seaman".Vice News. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  37. ^abChow, Vincent (ngày 10 tháng 3 năm 2009)."Arsenal Legends During Arsene Wenger's Era: David Seaman". Bleacher Report. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  38. ^Brockes, Emma (ngày 15 tháng 9 năm 2003)."The Monday Interview: David Seaman: Ha ha ha ha ha..."The Guardian. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2020.
  39. ^"Which Premier League goalkeeper has the best penalty record?".The Telegraph. ngày 27 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2020.
  40. ^"SEAMAN-IT'S A BALLS UP". Sky Sports. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  41. ^"On your Marcos, get set, go Seaman".The Guardian. ngày 23 tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  42. ^"Calamity keeper - handle with care".BBC Sport. ngày 17 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  43. ^Williams, Richard (ngày 17 tháng 10 năm 2002)."Sorry Seaman must step down".The Guardian. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  44. ^abWinter, Henry (ngày 14 tháng 1 năm 2004)."Seaman conjured defiant moments".The Telegraph. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  45. ^Martland, Charles (ngày 30 tháng 6 năm 2016)."None of Southgate's Euro '96 team-mates is working for the FA".The Times. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  46. ^"Best of Times, Worst of Times: David Seaman".The Times. ngày 11 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  47. ^Pierrend, José Luis (ngày 25 tháng 1 năm 2000)."IFFHS' World's Best Goalkeeper of the Year 1996". RSSSF.com. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  48. ^Stokkermans, Karel (ngày 30 tháng 1 năm 2000)."IFFHS' Century Elections: Europe - Keeper of the Century". RSSSF.com. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  49. ^McNicholas, James (ngày 19 tháng 7 năm 2013)."5 Best Arsenal Goalkeepers of All Time". Bleacher Report. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  50. ^David Seaman tại National-Football-Teams.com
  51. ^"David Andrew Seaman - International Appearances".Rsssf.com. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2017.
  52. ^ab"David Seaman: Overview". Premier League. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2018.
  53. ^Hugman, Barry J., biên tập (1997).The 1997–98 Official PFA Footballers Factfile. Harpenden: Queen Anne Press. tr. 317.ISBN 978-1-85291-581-0.

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải vềDavid Seaman.
Tiêu đề chuẩnSửa dữ liệu tại Wikidata
Giải thưởng
Đội hình Anh
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=David_Seaman&oldid=71744250
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp